đăng 20:48 14 thg 1, 2019 bởi Pham Hoai Nhan
[
đã cập nhật 00:30 15 thg 1, 2019
]
Lâm Trung Trại và những anh hùng “thủy hử” đất Đồng Nai
Lâm
Trung Trại được hình thành từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược
Đồng Nai. Thời ấy, người dân nơi đây tự hào ví hội này như Lương Sơn Bạc
của Việt Nam.
Chọn
Gò Mọi làm căn cứ, duy trì hoạt động, Lâm Trung Trại một thời từng
khiến thực dân Pháp khuynh đảo. Tuy nhiên, cho đến nay, còn ít tài liệu
đề cập đến nguồn gốc và sự hình thành hội kín anh hùng này.
Anh hùng Lương Sơn Bạc đất Biên Hòa Sau
Hiệp ước Pa-tơ-nốt (năm 1884), giai cấp phong kiến lúc bấy giờ tiếp tục
ra lệnh bãi binh trên toàn quốc. Nhưng chính sách trên không ngăn cản
được lòng yêu nước căm thù giặc của những người yêu nước. Các phong trào
yêu nước vẫn tiếp tục phát triển một cách bí mật. Dù đấu tranh kiên
cường và gặt hái một số thành công nhưng các phong trào trên đều bị thất
bại. Và sự thất bại đã đẩy các phong trào yêu nước vào những hội kín
được gọi là Thiên Địa hội.
Theo các tài liệu lịch
sử, Thiên Địa hội vốn xuất phát từ Bạch Liên Giáo của Trung Quốc vào
thời kỳ Mãn Thanh. Trong nội bộ giáo phái này, có nhiều chi phái mượn
màu sắc tôn giáo, lợi dụng sự mê tín của Hán tộc với mục đích khuynh đảo
nhà Thanh. Thiên Địa hội bắt đầu "vượt biên" vào nước ta từ đầu thế kỷ
XIX do Hà Hỉ Văn đứng đầu. Người này tiếp tục nuôi chí phản Thanh, phục
Minh.
Tuy nhiên, sự tuyên truyền của Thiên Địa hội
tại Việt Nam bị ngăn cấm rất khắt khe. Thời Pháp thuộc, thực dân đế quốc
mạnh tay trong việc ngăn chặn sự phát triển của các hội kín. Rồi, Thiên
Địa hội dần lui vào quên lãng. Tuy nhiên, sau này, lòng yêu nước, tinh
thần chống giặc ngoại xâm của những chí sĩ yêu nước lại vùng dậy. Họ
hoạt động chống giặc theo kiểu Thiên Địa hội.
Trong
công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đất Đồng Nai xưa cũng hưởng
ứng phong trào yêu nước của Thiên Địa hội dưới một tổ chức có tên Lâm
Trung Trại. Kể lại chuyện của những anh hùng thời loạn, các bậc cao niên
ngụ quanh khu vực chùa Bửu Hưng cho biết, Lâm Trung Trại là nơi tập
trung của những bậc anh hùng, hảo hán thời loạn lạc. Các bậc cao niên
cũng chỉ được nghe ông cha kể về họ như một huyền thoại về các anh hùng
Lương Sơn Bạc bên Tàu.
Theo các tài liệu lịch sử,
Lâm Trung Trại là nơi tụ nghĩa của các bậc anh hùng, ái quốc. Tác giả
Lương Văn Lựu trong tác phẩm Biên Hòa lược sử đã viết: "Dân Biên Hòa
cũng hưởng ứng phong trào chống Pháp của Thiên Địa hội. Rất nhiều các
tay anh chị, hảo hán ở nông thôn, võ nghệ tinh thông, đầy lòng hào hiệp,
không nặng tình cảm gia đình kết hợp nhau thành một đảng lấy hiệu danh
riêng là Lâm Trung Trại".
Cũng theo tài liệu, Lâm
Trung Trại chọn núi Gò Mọi thuộc xã Đại An (huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai),
nơi có địa hình hiểm trở, dễ thủ khó công làm căn cứ. Hơn thế, sinh sống
tại Gò Mọi chỉ toàn những dân tộc thiểu số nên giặc Pháp không để ý.
Đây được coi là một căn cứ lí tưởng. Về công có thể dùng thủy binh theo
ngọn Rạch Đông ra Biên Hòa, thủ có thể dựa vào rừng núi theo thế ỷ dốc. 
Ngọn Rạch Đông, có tính chất như một tuyến giao thông huyết mạch của Lâm Trung Trại. Thành
phần đứng đầu của nghĩa quân được tuyển chọn theo tiêu chuẩn: Uy tín,
đức độ tài năng, võ thuật và văn hóa. Ban đầu, đứng ra sáng lập Lâm
Trung Trại có 18 vị được người dân xưng tụng là "anh hùng" gồm: Năm Hi,
Ba Hổ, Ba Hầu, Hai Lựu, Bảy Đen, Sáu Huyền, Ba Vạn, Hai Danh, Bảy Phát,
Tám Tâm, Hai Mạnh, Ba Thứ, Năm Thanh, Ba Nghi, Tư Rùa, Hai Sở, Mười Lợi,
Hai Cầm. Ông Năm Hi được chọn làm lãnh đạo trại, dưới trướng là gồm 9
thành viên đều là những anh hùng, hảo hán lừng danh một cõi.
Theo
tác giả Lương Văn Lựu, ngoài tài võ nghệ, văn chương hơn đời, Năm Hi
còn giỏi về thuật số, chiêm tinh. Với những thành tích trên, Năm Hi được
tín nhiệm ngồi ghế đầu lĩnh Lâm Trung Trại. Dưới trướng của ông có Ba
Hầu, nổi tiếng can trường vì căm phẫn sự áp bức của thực dân Pháp đã từ
giã gia đình, từ chức Hương hào, gia nhập trại Lâm Trung bằng câu nói
bất hủ: "Ta sinh vi tướng, tử vi thần".
Một nhân
vật khác được ví như Võ Tòng của Lâm Trung Trại là Tư Hổ. Người này được
ghi nhận là một tay kiếm cung bậc nhất thời bấy giờ. Được biết, Tư Hổ
chính là đệ tử trân truyền của Võ sư Chung, một đạo sĩ được dân chúng
suy tôn là Phật sống trên núi Gò Mọi. Người xưa còn truyền lại sự kiện
khiến ai cũng phải thán phục. Ngày ấy, một mình Tư Hổ vượt tường lẻn vào
nhà làng Tân Trạch (nơi lính Pháp giam giữ thanh niên Biên Hòa làm lính
đánh thuê trong thế chiến thứ 2) kết liễu tên Việt gian khét tiếng với
tuyệt kỹ Tỏa hầu cầm nã thủ (một tuyệt kỹ võ công dùng 3 ngón tay bóp
đứt cuống họng đối thủ), giải thoát nhiều thanh niên bị giam hãm.
Những ám hiệu bí mật
Trong
sự bố ráp nghiêm ngặt của thực dân Pháp, Lâm Trung Trại phải duy trì
hoạt động bí mật bằng hệ thống ám hiệu, mật khẩu khác nhau, chủ yếu theo
cách của Thiên Địa hội trước kia. Đó là thông qua hệ thống khẩu hiệu
bằng thể ca dao. Các mật khẩu này chỉ được phổ biến trong nội bộ thành
viên trại.
Ngoài ra, để tiếp xúc với các thành viên
của trại ẩn thân trong làng, ấp, họ còn dùng mật hiệu là cây dù vải cán
có hình móc câu. Đây là vật bất ly thân đối với người đàn ông thời bấy
giờ. Chính sự phổ biến của những mật khẩu trên đã đánh lạc hướng, qua
mặt được bọn tay sai, giặc cướp nước. "Khách đến nhà tùy cách móc dù
trên cánh cửa mà chủ nhà nhận ra "đồng chí" và biết rõ ý hướng của mỗi
người", tài liệu của Lương Văn Lựu có nhắc đến vấn đề này.
Theo
đó, nếu chiếc dù được móc bên trái cửa sẽ báo hiệu khách chính là thành
viên của trại. Chiếc dù được móc bên phải so với cửa chính cũng là mật
hiệu cho biết khách đang có việc cơ mật cần bàn, báo hiệu chủ nhà phải
nhanh chuẩn bị địa điểm, thời gian để họp bàn. Hay móc cán dù xoay trở
ra ngoài cửa, báo hiệu khách chỉ ghé qua và không có việc cơ mật. Ngược
lại, nếu cán dù được quay móc câu vào trong nhà, báo hiệu khách cần lưu
lại nhà hoạt động lâu dài. Gia chủ cần đảm bảo mọi mặt từ an ninh đến
việc tổ chức liên lạc, hoạt động bí mật trong địa phương.
Ngoài
ra, cách hóa trang cũng là mật hiệu quen thuộc của các thành viên. Nếu
các thành viên xắn quần ống thấp ống cao tức là giặc đã phát hiện căn
cứ. Chúng chuẩn bị bố ráp, căn cứ cần phải nhanh chóng di chuyển. Việc
phơi, treo đồ, khăn, vải có màu đỏ trước nhà cũng được xem như dấu hiệu
của việc trong khu vực hoạt động sắp có giặc hành quân, có tay sai giặc
ẩn mình...
Theo lời kể của nhiều bậc cao niên tại
đây, Lâm Trung Trại còn sử dụng nhiều hệ thống ám, mật hiệu, mật mã khác
nữa. Nhưng vì điều kiện sử dụng bí mật nên chỉ những người quan trọng
mới được biết. Hơn nữa thời gian quá lâu nên những mật hiệu kia gần như
đã không còn ai nhớ. Hiện chỉ còn vài người nhớ được ít mật hiệu dưới
dạng những bài ca dao, vè như: "Quần xắn ống thấp ống cao. Bộ đi vội vã,
có tàu của Tây" hay "Dù máng bên tả - Đảng viên. Đi việc cơ mật nói
riêng chủ nhà",...
Theo lời kể của người cao tuổi
thì lúc mới thành lập, vũ khí trong trại hết sức thô sơ, lạc hậu. Họ chủ
yếu sử dụng các loại đao kiếm, cung tên, giáo mác. Về sau, theo chủ
trương hiện đại hóa vũ khí của đầu lĩnh Năm Hi, trại cũng trang bị được
một số súng, thậm chí có những loại súng hiện đại từ tay thực dân Pháp.
Cụ
Huỳnh Hoàng Tín, 78 tuổi ngụ phường Quang Vinh, TP. Biên Hòa kể: "Tôi
nghe những người đi trước kể rằng để có súng tốt, các thành viên trong
Lâm Trung Trại đã trà trộn vào dân ấp, mở quán nước, quán chè, quán cháo
rồi cho những cô gái đẹp đứng bán. Đó chính là mỹ nhân kế của trại.
Phần lớn số súng của trại đều được trại đoạt lấy khi các cô gái tri hô
trước sự "háo sắc" của bọn giặc. Số khác, Lâm Trung Trại tìm cách lén
mua lại từ kho vũ khí của giặc qua những tên quản kho háo sắc, háo
vàng".
Được tôn vinh là những anh hùng, hào kiệt,
mang trên vai trọng trách cứu nước, tổ chức Lâm Trung Trại được người
dân nhiệt tình ủng hộ. Không bao lâu sau, số thành viên trong trại nhanh
chóng tăng vọt. Số người về tụ nghĩa không ngừng nhân rộng. Từ đây, Lâm
Trung Trại bắt đầu định hướng cho mình trên con đường cứu nước còn quá
nhiều chông gai.
"Lò luyện"tinh thần yêu nước Vì
là nơi tụ nghĩa của những hào kiệt có khí phách và tinh thông võ nghệ
với mục đích thoát khỏi xiềng xích nô lệ, Lâm Trung Trại từng được người
dân xứ Biên Hòa xưa xem như Lương Sơn Bạc của đất Đồng Nai. Dẫu đấu
tranh một cách tự giác, tự phát bằng những trang bị thô sơ, Lâm Trung
Trại cũng là nơi vực dậy tinh thần quật cường, lòng yêu nước, kiên quyết
đấu tranh đòi quyền tự do của người dân Đồng Nai.
Những trận đánh bi hùng của các hảo hán Lâm Trung TrạiPhần này trên Người đưa tin chưa được tìm thấy
Giây phút cuối và nấm mồ chung của 9 vị anh hùngTrước
âm mưu thâm hiểm của giặc và bè lũ tay sai bán nước, những anh hùng Lâm
Trung Trại một phút sa chân đã rơi vào tay giặc. Chúng giết 9 vị anh
hùng rồi chôn chung họ trong một huyệt lớn tại gốc cây Gõ Cụt nơi Dốc
Sỏi. Anh hùng thất thế
Thất
bại trước mục tiêu tấn công thành Sơn Đá, Lâm Trung trại bị thực dân
Pháp bố ráp, vây bắt, truy kích không ngừng. Mục tiêu của bọn chúng là
muốn một mẻ bắt sạch "những con cá to" trong Lâm Trung Trại để làm gương
cho những cá nhân, tổ chức yêu nước người Việt.
Trước
tình hình nguy cấp, Lâm Trung Trại đã quyết định tạm giải tán để đảm
bảo sự an toàn cho các thành viên. Theo đó, Năm Hi chủ trương cho nghĩa
quân tiêu hủy hết vũ khí, đạn dược để các thành viên ngụy trang thành
người tha hương đến chốn này. Hơn nữa, Năm Hi làm vậy để tránh việc số
vũ khí trên lọt vào tay giặc khi căn cứ Gò Mọi thất thủ. Lợi dụng lúc
nửa đêm, nghĩa quân bí mật vận chuyển số vũ khí trên đổ hết xuống lòng
sông Đồng Nai đỏ ngầu phù sa. Vị trí đổ số vũ khí trên cũng được giữ bí
mật tuyệt đối. Sau lần tụ họp cuối cùng đó, những đầu lĩnh của Lâm Trung
Trại chia tay nhau, tiêu tán mỗi người một ngả.

Khu vực Dốc Sỏi, nơi diễn ra buổi hành quyết 9 anh hùng Lâm Trung Trại. Để
che mắt giặc, những anh hùng này ngụy trang với nhiều nghề khác nhau.
Tuy nhiên, trước sự truy nã tàn khốc cùng những âm mưu thâm độc và sự
chỉ điểm của bè lũ tay sai, lần lượt các anh hùng đều rơi vào tay giặc.
Trong đó, 8 vị đứng đầu Lâm Trung Trại bị giặc bắt bao gồm: Năm Hi, Hai
Lựu, Lào Lẹt, Hai Sở, Ba Vạn, Bảy Phát, Hai Danh, Ba Hầu. Cuối tháng 3
năm đó, các thành viên trên và hai anh em được mệnh danh là "song hùng"
Mười Tiết, Mười Sót bị đưa ra trước tòa Áo Đỏ (Đại hình của Pháp) với
tội danh "phiến loạn, cướp của, giết người".
Phiên
tòa diễn ra một cách chóng vánh. Tất cả các anh hùng nằm trong nhóm lãnh
đạo Lâm Trung Trại đều bị kết án tử hình. Năm Hi, Ba Hầu, Hai Lựu, Hai
Sở, Lào Lẹt, Bảy Phát, Bếp Đầy, Mười Tiết, Mười Sót nằm trong danh sách
bị xử tội chết. Còn lãnh án 20 năm khổ sai, lưu đày Côn Đảo có Tư Hổ, Ba
Vạn. Bản án được ấn định và thi hành một cách nhanh chóng và gấp rút.
Sau khi nghe tin dữ, người dân, tàn quân của Lâm Trung Trại cũng tổ chức
nhiều cuộc phản đối nhưng đều bị bọn cướp nước dìm trong máu lửa.
Vào
một buổi xế chiều, người dân xóm Dốc Sỏi (thôn Bình Thành nay thuộc
phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa, Đồng Nai) thấy viên quan Pháp dẫn đầu
đoàn lính vác súng trên vai và mấy người mặc áo xanh khiêng nhiều cột
gỗ, cuốc xẻng kéo đến vùng Gò Mô (trước cổng sân bay Biên Hòa ngày nay).
Tại
đây, tên vệ úy đứng lên gò đất cao quan sát như đang tìm địa thế. Ít
phút sau, tên này lệnh cho đám lính bắt phạm nhân phát quang bụi rậm
thành một khoảng đất trống hơn 250m2. Sau khi đám tội án hoàn thành công
việc, đám lính mã tà lại gí họng súng vào lưng, lệnh cho họ đào chín lỗ
sâu trồng chín cây cột gỗ dựng thành hai hàng ngang.
Sự
việc trên khiến không ít người dân tò mò xúm quanh. Nhiều người bàn tán
rằng, Pháp lại cho dựng chốt, đóng quân nơi đây. Người thì cho rằng rất
có thể giặc mở đường đi Bến Cá (Bình Dương) và đang đánh dấu làm mốc.
Tuy nhiên, không một ai trong số họ biết được rằng, 9 cây cột kia chính
là nơi kết liễu 9 vị anh hùng Lâm Trung Trại mà bấy lâu họ ngưỡng mộ.
Những lời trăng trối oai hùng
Sáng
hôm sau, trời vừa hửng sáng, dân trong vùng bị đánh thức bởi tiếng xe ô
tô gầm rú tại khu vực Gò Mô. Dân trong vùng hiếu kỳ pha chút lo lắng
khi thấy cảnh lính nai nịt gọn gàng, tay bồng súng trước ngực, đứng
thành hai hàng thẳng tắp. Sau ít phút, một chiếc xe được bọc kín bằng
vải dù xanh đỗ lại. Từ cửa sau, người dân trông thấy rõ mồn một 9 tội
nhân mặt mày hốc hác, xanh xao, tay bị còng, chân đeo xiềng xích xuống
xe. Bước khỏi xe, 9 tội nhân bị đám lính ép đi theo một hàng thẳng.
Theo
lời kể của nhiều bậc lão niên thì sau khi lính đã sắp tội phạm đâu vào
đấy thì xuất hiện ông Đỗ Hữu Trí, giữ chức Biện lý và một cha đạo. Đến
lúc này, người dân nơi Dốc Sỏi mới nhận ra đây là cuộc xử bắn những anh
hùng Lâm Trung Trại. Tin tức nhanh chóng lan rộng, người dân kéo đến
ngày một đông. Tuy nhiên, họ bị đám lính đẩy ra xa pháp trường.

Khu vực Gò Mô. Sau
đó, 9 tội nhân bị giải đến 9 cột gỗ đã dựng sẵn, có đám lính giương
súng đứng trấn giữ bốn bên. Ít phút sau, Đỗ Hữu Trí bước lên phía trước
đọc bản án cho 9 tội nhân. Vừa dứt lời, bọn lính trói quặt tay 9 vị anh
hùng Lâm Trung Trại ra sau cột gỗ. "Lúc bấy giờ, trời đã sáng hẳn. Sắc
diện các tử tội đều thấy biến đổi, trông như đã mất thần. Duy chỉ có Ba
Hầu, Hai Sở vẫn giữ được nét thản nhiên với gương mặt còn tươi tỉnh",
trong tác phẩm Biên Hùng lược sử của Lương Văn Lựu có ghi lại như vậy.
Sau
đó, viên quan Pháp cho 20 lính đứng đối mặt với tử tội cách xa hơn 20m.
Như một ân huệ cuối, Biện lý Đỗ Hữu Trí cho phép tử tội được nói lời
trăng trối với người thân. Và chính giây phút ấy đã đi vào lịch sử Biên
Hòa khi tinh thần, khí tiết hùng dũng của những bậc anh hùng đã hòa vào
hồn thiêng của xứ này và được lưu truyền mãi mãi. Được biết, ông Ba Hầu
là người đầu tiên lên tiếng.
Theo Biên Hòa sử lược, ông Ba Hầu hỏi xem có vợ con của mình có ở đây không. Sau đó, vị anh hùng này hùng dũng nói to: "Ta sinh ra làm tướng, chết làm thần. Bà con ở lại mạnh giỏi". Tiếp sau đó, Hai Sở hiên ngang thách thức: "Cứ bắn ta đi. Sở này không sợ đâu. Cái chết, ta thị như quy tân gia (xem như được về nhà mới)".
Lúc
đó, 7 người còn lại mặt sắc lạnh nhưng họ không nói lời nào. Tuy nhiên,
đứng trước cái chết, những con người này không lộ vẻ hối tiếc, khiếp
hãi. Sau đó, lính đem vải đen đến bịt mắt từng phạm nhân và trở về vị
trí. Viên quan người Pháp cuối cùng cũng cất giọng hạ lệnh, 20 lính cầm
súng đồng loạt quỳ một chân giữ tư thế chuẩn bị bóp cò. Khẩu lệnh thứ
hai nghe lạnh lùng, toán lính đồng loạt nâng súng lên ngang mắt, ngắm.
Tiếng động phát ra từ thao tác trên khiến người xem nổi da gà. Nhiều
người đã ngất lịm, tiếng khóc, tiếng kêu gào phát ra từ đám đông người
dân đến xem. Lệnh thứ ba được viên quan hai thao tác bằng tay. Khi tay
hắn hạ xuống, một loạt súng khô khốc vang lên. 4 vị anh hùng gục đầu
xuống, không một tiếng kêu.
Tiếng súng đồng loạt
nổ, xé đi sự tĩnh lặng của buổi sớm mai. Chưa dừng lại, cánh tay của
viên quan lại hạ xuống, một loạt súng lại cất lên, 5 vị anh hùng lại gục
xuống, máu tươi từ ngực tuôn chảy nhuộm đỏ áo tù rồi nhỏ thành giọt
trên mặt đất. Tiếng than khóc của người dân lại càng thảm thiết thương
tâm. Cuối cùng, viên trung úy Pháp cầm súng lục đến từng tử tù giờ chỉ
còn là những cái xác đỏ máu, bắn những viên đạn ân huệ. Xong đâu đấy,
quan, lính ra về để lại những tội nhân khác cùng đám lính lo việc chôn
xác các anh hùng thất trận.
Cũng tại đây, sau khi
hồn thiêng đã hòa quyện cùng sông núi, những anh hùng một thời được nằm
chung một nấm mồ. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, giờ đây,
chùa Cô Hồn gần như là nơi duy nhất lưu giữ những thiên sử bi hùng về 9
người anh hùng yêu nước này.
Câu nói bất hủ của ông Biện lý
Theo
ghi nhận của Biên Hòa lược sử, ông Biện lý Đỗ Hữu Tri trên đường ra về
sau vụ hành quyết đẫm máu 9 anh hùng Lâm Trung Trại bất ngờ gặp một toán
phụ nữ tỏ yá̊ cười nhạo người dân địa phương khóc than 9 anh hùng, ông
Biện lý nói thẳng: "Người nước Nam bị bắn không biết xót thương lại còn
đi coi và cười nhạo". Câu nói trên được các bô lão đánh giá là bất hủ vì
đã làm thức tỉnh biết bao con tim đã lầm lạc trước đó.
Ngôi mộ chung của 9 hảo hán vẫn còn là bí ẩnNgười
dân muốn được đưa thi hài các hảo hán Lâm Trung Trại về mai táng. Tuy
nhiên, họ đã bị họng súng của giặc ngăn lại. Cuối cùng, một nấm mồ chung
chôn 9 nghĩa sĩ được dựng nên. Trải qua bao năm, mộ xưa nay đã mất
tích. Những anh hùng chỉ còn trong sử sách. Hồn thiêng gửi nơi Dốc Sỏi
Sau
khi xử tử 9 phạm nhân bị khép tội cướp của giết người, đám lính Pháp
lên xe ra về. Họ bỏ lại 9 cái xác đang gục rũ trên những cọc gỗ. Đám
lính quèn và các tội nhân khác ở lại để thu dọn trường bắn. Chứng kiến
sự hi sinh anh dũng của những anh hùng một đời theo lý tưởng cứu nước,
người dân Dốc Sỏi quỳ gối tiễn biệt họ. Sau ít phút chuẩn bị, đám tội
nhân được lệnh tháo dây trói cho 9 anh hùng Lâm Trung Trại và tiến hành
công việc mai táng.
Các bô lão sống quanh chùa Cô
Hồn (gần khu vực Dốc Sỏi) cho biết: "Cha ông chúng tôi kể lại rằng, sau
khi chứng kiến lũ giặc bắn những nghĩa sĩ, người dân đã lao ra đòi
khiêng xác các hảo hán về mai táng nhưng không được. Trước sự hung hăng
của đám lính, người dân cũng không dám làm căng. Họ sợ bị khép tội tòng
phạm với tử tù nên đành đứng nhìn giặc khiêng xác các anh hùng đi
chôn".

Chùa Cô Hồn, nơi lưu dấu hồn thiêng 9 anh hùng Lâm Trung Trại Thời
gian trôi đi, trải qua nhiều biến cố lịch sử, khu vực chôn cất những
nghĩa sĩ dần phai nhòa trong ký ức người dân nơi đây. Hiện tại, khi được
hỏi về 9 anh hùng Lâm Trung Trại, rất ít người biết đến. Vì thế, những
thông tin về nơi chôn cất của các nghĩa sĩ lại càng mờ mịt hơn. Ngoài
một số bô lão cao tuổi thường xuyên làm công quả tại chùa Cô Hồn, người
dân bản xứ không hề nghe nói về vụ xử bắn cũng như nơi an nghỉ của các
anh hùng Lâm Trung Trại.
Tìm hiểu tại chùa Cô Hồn
(phường Quang Vinh, TP. Biên Hòa, Đồng Nai), chúng tôi được biết, khu
vực chùa không phải là nơi chôn cất các anh hùng Lâm Trung Trại. Được
biết, chùa Cô Hồn được xây dựng khá lâu sau vụ hành quyết các hảo hán
ngày nào. Những bô lão làm công quả tại chùa khẳng định: Vì thương tiếc
và cảm phục tinh thần đấu tranh của những anh hùng nghĩa sĩ, người dân
Dốc Sỏi đã dựng một am lá để hương hỏa cho họ.
Tuy
nhiên, vị trí chính xác nơi chôn cất 9 anh hùng giờ rất khó xác định.
Bởi đất đai và phong cảnh ở đây đã đổi thay nhiều so với trước đây. Tuy
nhiên, người xưa cũng như các giai thoại kể lại rằng, 9 hảo hán bị xử
bắn rồi được chôn chung tại gốc cây Gõ "cụt" thuộc khu vực sân bay Biên
Hòa.
Trong cuốn Biên Hòa lược sử ký, tác giả Lương
Văn Lựu cũng khẳng định cây Gõ "cụt" chính là nơi an nghỉ của 9 vị anh
hùng. Cũng theo tài liệu trên, phía tây của Dốc Sỏi có một cây Gõ cổ thụ
vì bị sét đánh gẫy ngọn nên được người dân trong vùng gọi là cây Gõ
"cụt". Cũng từ sự sống sót kỳ lạ sau khi bị sét phạt ngang, người dân
cho rằng, đây là loài cây thiêng. Vì coi là nó linh thiêng nên thường
ngày ít ai dám bén mảng đến gần gốc cây cổ thụ này. Chính nơi đây được
các tội nhân có nhiệm vụ lo hậu sự chọn làm nhà chung cho các anh hùng
Lâm Trung Trại.
Cảm thương trước sự ra đi của những
anh hùng thất thế, các tội nhân khác xin giặc cho mỗi người anh em Lâm
Trung Trại nằm một huyệt riêng biệt. Tuy nhiên, đám lính Pháp không đồng
ý. Cuối cùng, họ đành đào một hầm sâu làm mồ chung cho 9 thi thể anh
hùng. Trong khi đó, như một nỗ lực cuối cùng, người dân địa phương gom
góp tiền mua 9 manh chiếu mới thay cho áo quan để các vị anh hùng an
nghỉ. Cuối cùng, không nhang khói, không trống nhạc tiễn đưa, 9 hảo hán
nằm chung một ngôi mộ trong tiếng khóc than của người dân.
Vẫn chưa tìm thấy mộ của các anh hùng
Dưới
sự cấm đoán của giặc, người dân yêu nước không thể hương khói cho 9 vị
anh hùng thất thế. Tuy nhiên, sau khi khóc tiễn đưa họ về với đất mẹ,
nửa đêm, dân địa phương bí mật sắm lễ cúng đến thăm viếng. Được biết,
các vị anh hùng cũng được người dân và các thành viên khác của trại bí
mật để tang trong một thời gian dài sau đó.
Từ ngày
định mệnh trên, người dân tưởng nhớ các vị anh hùng Lâm Trung Trại một
cách bí mật. Ban đầu, việc nhang khói, tưởng niệm, cúng bái chỉ được
tiến hành vào ban đêm. Về sau, nhận thấy thực dân Pháp đã quên đi các
anh hùng từng khiến chúng điên đảo, dân địa phương quyết định công khai
hương khói. Theo đó, dân địa phương cho dựng một am nhỏ tại gốc cây đa
lớn ở đầu Dốc Sỏi để thờ Phật và cầu siêu cho những người đã khuất. Vì
mục đích xây dựng để hương khói những người đã khuất, am cỏ trên được
dân địa phương quen gọi là chùa Cô Hồn. Từ đó, nơi đây được xem là nơi
thờ tự, lưu dấu hồn thiêng của 9 vị anh hùng Lâm Trung Trại.

Bảng thông tin chùa Bửu Hưng Trong
cuốn Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu có ghi, chùa Cô Hồn trải qua
nhiều biến cố và gắn liền với những sự kiện lịch sử mang tính trọng đại
của đia phương. Chùa được xây dựng vào năm 1918 ở ngã ba Dốc Sỏi, xóm
Bình Thành xưa. Sau đó hai năm, Sở hỏa xa (thời Pháp thuộc) mở đường ray
qua vị trí chùa để chở đá ở núi Lò Gạch về xây dựng đường. Chính vì
vậy, chùa buộc phải dời về phía Tây Nam so với vị trí ban đầu. Trong lần
di dời địa điểm này, chùa được xây dựng khang trang hơn và một vị tu sĩ
đã đến nhận chức trụ trì. Từ đây, chùa Cô Hồn được vị trụ trì đổi lại
hiệu là Bửu Hưng Tự.
Thông
tin về chùa Cô Hồn, người dân phường Quang Vinh cũng như những cá nhân
thường xuyên công quả tại chùa nhận định: "Chùa đúng là nơi thờ tự những
anh hùng Lâm Trung Trại. Tuy nhiên, chúng tôi chưa nghe ai nói rằng đây
là nấm mồ chung của 9 vị anh hùng bị hành quyết". Được biết, từ lâu,
người dân địa phương đã xem chùa như nơi lưu giữ hồn thiêng và những ký
ức về những anh hùng Lâm Trung Trại nổi tiếng với vụ phá Khám Biên Hòa
gần 1 thế kỷ trước.
Khu
vực được sử sách nhận định là Dốc Sỏi - pháp trường thực hiện buổi hành
quyết 9 người đứng đầu Lâm Trung Trại giờ đã trở thành đại lộ Nguyễn Ái
Quốc (phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa). Ngược với những miêu tả đầy
hoang sơ của tác giả Lương Văn Lựu, ngày nay, Dốc Sỏi là những công
trình kiến trúc, khu giải trí, kinh doanh hiện
đại. Thời gian trôi đi, quá trình hiện đại hóa gần như đã đổi thay con
đường Dốc Sỏi chạy qua pháp trường năm nào. Vị trí gốc cây Gõ "cụt" cổ
thụ, nơi được nhận định là nấm mồ chung của các vị anh hùng thất thế
cũng không còn dấu tích.
Theo
đó, những đầu mối dẫn chúng tôi trên con đường tìm kiếm hình hài của
những anh hùng "Lương Sơn Bạc" đất Biên Hòa xưa đều hướng về chùa Cô
Hồn. Tại đây, dẫu đất xưa đổi dời nhưng hồn thiêng, dũng khí và sự ra đi
của những anh hùng Lâm Trung Trại trong buổi đầu đấu tranh cứu nước vẫn
như còn vang danh mãi mãi.
Di tích lịch sử cách mạng
Bửu
Hưng Tự không chỉ là nơi ghi dấu buổi hành quyết đẫm máu đối với các
anh hùng Lâm Trung Trại mà còn là một di tích lịch sử cách mạng. Theo
đó, chùa cũng là nơi diễn ra Hội nghị cán bộ Đảng ở Biên Hòa vào tháng
6/1945 do đồng chí Hoàng Minh Châu trụ trì. Đây là hội nghị quyết định
những vấn đề quan trọng về chủ trương, chuẩn bị cho nhân dân Biên Hòa
nổi dậy giành chính quyền trong cách mạng Tháng 8/1945. Chùa được UBND
tỉnh Đồng Nai xếp hạng di tích cách mạng theo quyết định số 62/QĐ UBT ngày 16/2/1979.
Hà Nguyễn - Ngọc Lài |
|