Tôi vốn là kẻ quê mùa, nghề gìn giữ di
sản ở cố đô. Cách đây ngót 3 năm, vào dịp đầu xuân năm Mậu Tí, tình cờ
gặp gia chủ, khi ấy anh chị đang ra Huế tìm thầy hỏi thợ để thực hiện
ước mơ bao năm ấp ủ là tạo lập một ngôi vườn để đời ở Đồng Nai này.
Thực là duyên kỳ ngộ, vì tôi cũng là kẻ đang mong mỏi khôi phục lại
những ngự viên cổ xưa tại vùng đất Phú Xuân của họ Nguyễn. Hàn huyên
chuyện trò rồi tâm đầu ý hợp, anh chị tin tưởng rồi nhờ tư vấn đôi điều
cho khu vườn mơ ước. Tôi biết mình tài hèn sức mọn nhưng cũng gắng sức
trằn trọc trăn trở để giúp gia chủ , lại giới thiệu thêm người quen, bạn
bè cùng giúp sức. May mà có nghệ nhân Trương Văn Ấn, trưởng nam của cụ
Cửu Lập nhận lời giúp dựng ngôi nhà rường kiểu Huế và cổng chính, thầy
Vĩnh Cao dẫn dắt về phong thủy địa cục và đặt tên vườn. Rồi biết bao bạn
bè của anh chị, người trợ giúp, kẻ góp lời, cốt chỉ mong khu vườn thêm
đẹp.
Còn tâm huyết, sức lực mà gia chủ đã dành cho khu vườn này thì thật
khó dùng lời mà nói hết được! Từ khi đặt viên đá khởi công đến nay,
suốt sáu năm trời anh chị lặn lội khắp nơi, từ vùng núi cao Tây Bắc gập
ghềnh, hiểm trở về miền Tây Nam heo hút xa xôi, từ đất Ninh Bình trùng
điệp đá vôi đến rừng già Tân Nguyên đại ngàn, rối Huế và dải đất miền
Trung nắng lửa… Nơi nào nghe nói có thợ giỏi, kiểng đẹp, đá hay đều
quyết không bỏ qua.
Quen anh chị từ bấy đến nay, chứng kiến họ đổ bao tâm huyết, sức
lực vì công trình này mới thấy những gì đang hiện hữu đây thật đáng
trọng, đáng quý biết nhường nào! Ngày xưa Phú Xuân Huế là đất kinh kỳ còn Đồng Nai là xứ biên viễn
phương Nam. Bậc trượng phu tất phải ngang dọc bốn phương để trải nghiệm
mình:
Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng
Có phải vì vậy mà chàng trai đất Đồng Nai sau già nửa đời kinh dinh
tế thế đã quay về quê hương dựng mảnh vườn này mà vẫn không quên được
đất Phú Xuân hào hoa diễm lệ.
Vườn tên là Nhã Viên vốn xuất phát từ tâm nguyện của gia chủ: dựng
một khu vườn dù dốc hết cả tâm sức nhưng ngoài là chốn riêng để vui thú
điền viên còn là nơi để đối đãi bạn bề thân hữu với tất cả sự trân trọng
cùng tấm lòng rộng mở của người phương Nam. Chữ Nhã theo nghĩa ấy vừa
Thanh vừa Cao.
Vườn không quá rộng cũng không quá nhỏ, tròn trặn một mẫu ta (5.000m2),
đủ để xây dựng mấy căn nhà, khơi mấy con lạch nhỏ, trồng hoa, đặt kiểng
và dựng đôi ba hòn giả sơn. Chữ Viên như vậy không chỉ là Vườn mà còn
là sự Đủ Đầy, Viên Mãn.
Cổng vườn dựng kiểu Tam Quan cổ điển xứ Huế, không hẳn là kiều cung
điện nhưng cũng đủ để tương thích với ngôi nhà rường lớn giữ vị thế
kiến trúc chủ của Nhã Viên. Nhà tên Phú Xuân Đường không chỉ gửi gắm ước
mong về mùa xuân và sự thịnh vượng mà còn vì phong cách kiến trúc kiểu
nhà rường đặc trưng xứ Huế, gợi nhớ về vùng đất cố đô văn vật.
![]() Con lạch nhỏ dẫn nước từ phía tây về đông gọi là Hương Tuyền, có
nghĩa là Suối Thơm, cũng là để gợi nhớ về dòng sông Hương Giang thơ mộng.
Suối tích thủy dồn lực từ núi Ngũ Phong, đại giả sơn trấn giữ bên tả
Phú Xuân Đường. Phía sau lại có giếng nước Thanh Phương trợ lực để năng
lượng không bao giờ dứt. Dưới thác Ngũ Phong là Liên Trì – khoảnh ao
nhỏ đủ cho mấy bụi sen, súng khoe sắc và khiến Hương Tuyền thêm thơm
mát. Hương Tuyền chảy quanh co từ tây qua đông theo hình chữ Chi, qua
phía trước Phú Xuân Đường, qua ngôi nhà nhỏ để hóng mát mang tên Lương
Phong ở phía đông, tụ thành chiếc hồ nhỏ mang tên Nguyệt Hồ, rồi bao bọc quanh Vọng Sơn Các cả ba mặt bắc – đông – nam, lại vòng quanh ba mặt
bắc – tây – nam của Nam Huyên Đường để dừng lại trước Đào Nguyên Động
tạo nên Long Trì – tức Ao Rồng.
Vắt qua Hương Tuyền có 5 cây cầu nhỏ, trước mặt Phú Xuân Đường là
Kim Nghê Kiều, cầu đá kiểu cỏ xứ Huế, hình dáng như con lân cuộn mình.
Sau cổng chính, trước ngôi nhà Nam Bộ là Phụng Kiều, cây cầu gỗ đơn giản
mà duyên dáng như lời mời của gia chủ. Trước cây sộp đỏ kỳ lạ uốn cong
tạo thành hình Nguyệt môn có cây cầu nhỏ tạo nên chỉ bằng một viên đá,
đó là Long Nhi Kiều. Cầu tựa con rồng nhỏ nhô lưng mời du khách bước
qua. Nhánh phía bên kia của Hương Tuyền có phiến đá rộng, gồ lên như mai
rùa bắc ngang dòng nước, đó lá Quy Kiều. Ở phía trước đình Lương Phong
lại có Lục Độ Thạch, 6 viên đá nhỏ lựa theo thế nước mà xếp đặt để dẫn
người đi. Độ thạch không phải là cầu nhưng đưa được người qua suối thì
vẫn tính là cầu vậy.
![]() Nhã Viên tuy nhỏ nhưng vẫn thể hiện được chí lớn cùng tâm tình của
gia chủ, từng ngang dọc Bắc Nam, tuy xuất thân từ miền Nam nhưng vẫn
luôn mong nhớ về xứ Bắc cội nguồn, muốn đưa văn hóa cả 3 miền về chung
một khu vườn. Bởi vậy dù lấy Phú Xuân Đường làm chủ nhưng bên tả vẫn có
Tư Quảng Đường mang phong cách nhà rường Nam Trung Bộ, bên hữu có Vọng
Các Sơn, ngôi nhà sàn đưa về từ miền Tây Bắc xa xôi. Trước Vọng Các Sơn
lại có Nam Huyên Đường, ngôi nhà truyền thống Nam Bộ dựng ngay bên cửa
chính như đang đón chờ khách. Con cháu chỉ cần nghe tên gọi tất đã hiểu ý
người dựng vườn mà không quên cội nguồn tiên tổ.
![]() Long Trì là thủy tụ bên Đông ứng với Linh Phong bên Tây. Núi dựng
bằng 3 tảng đá lớn lại đèo thêm hòn đá nhỏ, nhìn dưới chân lại có thêm 3
viên đá khác để đủ 7 hòn. Số 7 tượng trưng cho dãy Thất Sơn, núi chủ
của đất miền Nam. Long Trì và Linh Phong tạo nên thế sơn thủy cân bằng
mà sung mãn, tựa như Tài – Đức hài hòa, không chênh lệch, tạo nên phúc
ấm cho con cháu đời sau.
Con đường nhỏ mang tên Bách Bộ Liên Hoa dẫn từ cồng chính đi khắp
vườn được tạo thế quanh co tùy cảnh những mong khách bộ hành tùy hứng mà
giãn bước hay dừng chân để tâm hồn được thư thái bình yên. Chữ Nhã Viên
cũng hàm ý như vậy.
Ở xứ Đồng Nai nắng lắm mưa nhiều, tứ thời đều là mùa hạ. Nhã Viên là
khoảng không gian nhỏ gợi lên hình ảnh của cả 3 miền, phảng phất cả
hương xuân, sắc thu và chút thi vị mùa đông mỗi khi trời đổi tiết. Dựng thành Nhã Viên để thỏa mong ước đời người, nhưng anh chị Đặng
còn phải chăm chút giữ gìn rất nhiều rất nhiều nữa thì giấc mơ mới tròn
trặn viên mãn.
Dựng vườn đòi sức, giữ vườn đòi chí. Tôi mong Nhã Viên ngày càng
nhã hơn, đẹp hơn. Nếu vậy, dăm năm nữa Nhã Viên không chỉ là cơ nghiệp
của riêng gia chủ mà chắc chắn sẽ là một danh viên ở đất phương Nam này.
Hơn thế, hẳn còn là một di sản văn hóa cho con cháu đời sau.
Biên Hòa, trung thu năm Canh Dần
TS Phan Thanh Hải cẩn bút Ghi chú: TS Phan Thanh Hải là Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, bài Nhã Viên ký này được viết để ghi lại những cảm nhận của ông khi góp công sức hình thành Nhã Viên. Tham khảo thêm trang web của Nhã Viên: www.nhavien.vn |
Ký sự & Suy ngẫm >