Cho
đến nay, dù chưa biết đích xác những lưu dân Việt đặt chân lên xứ Đồng
Nai vào thời điểm nào, nhưng chắc chắn, họ đã có mặt trước năm 1623, khi
chúa Nguyễn thiết lập đồn thu thuế tại Preikor (địa điểm được xác định
thuộc nội ô Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Sự có mặt của nhóm cộng
đồng người Hoa được sử sách chép với mốc thời gian định vị rõ ràng. Sách
Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cho biết: “Tháng
5 năm Kỷ vị (1679), Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, bầy tôi nhà
Minh, không phục nhà Minh, đã dẫn 3.000 người với 50 chiếc thuyền nhập
cửa biển Tư Dung, xin định cư ở nước Việt. Chúa Nguyễn chấp thuận và sai
các tướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn cho vào đất Đông Phố. Nhóm
Long Môn của Dương Ngạn Địch theo cửa Đại, cửa Tiểu đến định cư tại Mỹ
Tho. Nhóm Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Giờ đến
sinh sống ở xứ Bàn Lân (tức Biên Hòa ngày nay)”. Hơn ba trăm năm có lẻ, kể từ khi đặt chân đến vùng đất Đồng Nai “xứ sở lạ lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”,
nhóm người Hoa bắt đầu tạo lập cuộc sống trên vùng đất mới. Họ cùng với
người Việt – số di dân đến định cư trước, cần mẫn khai khẩn, mưu cầu về
một cuộc sống ấm no hơn, hạnh phúc hơn nơi mà họ đã ra đi, dù trước mắt
còn nhiều chông gai, trắc trở. Bao thế hệ người Hoa, từ đoàn di dân đầu
tiên đến những đợt di cư về sau, đã đến Đồng Nai để khai khẩn, xây dựng vùng “tị địa”, trước còn xa lạ, sau trở thành “quê hương” thân quen, bao dung họ.
Trải
qua bao biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc trầm trong suốt quá trình di
cư, định cư ở Đồng Nai, người Hoa đã có nhiều đóng góp quan trọng trong
công cuộc khai phá, xây dựng vùng đất này. Bao cái còn, cái mất với thời
gian bể dâu, cộng đồng người Hoa đã để lại những dấu ấn trong diễn
trình lịch sử Đồng Nai nói riêng, Nam Bộ nói chung. Mà ở đó, không chỉ
là hoài niệm trong quá khứ của một thời đoạn lịch sử, của những cái đã
từng tồn tại nay đã mất mà cả những điều tưởng chừng như vô hình lại trở
thành hữu thể trong một đời sống tinh thần được thể hiện phong phú, đa
dạng cho đến hôm nay.
Ngày
nay, đi trên những nhánh sông chảy ngang địa phận thành phố Biên Hòa
(Phước Long Giang xưa) ôm trọn Cù lao Phố êm ả, nếu không có sách sử
chép, chúng ta khó nhận diện được một thương cảng sầm uất của xứ Đồng
Nai – Gia Định cách nay hàng mấy thế kỷ. Tên gọi Cù lao Phố dân dã ấy
lại là danh xưng dễ quen, dễ nhớ về một nơi từng được định danh “xứ đô
hội” mà công đầu tạo dựng là của nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn
đầu thực hiện. Thương cảng Cù lao Phố được miêu tả tường tận dưới cái
nhìn của Trịnh Hoài Đức như sau: “Trần Thượng Xuyên tướng quân chiêu
tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá, mái ngói tường vôi, lầu
cao quán rộng, dọc theo bờ sông liền lạc tới năm dặm, chia vạch làm ba
đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường
phố nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền ở
biển và ở sông đến đậu neo, có những chỗ liên tiếp nhau, một chỗ đại đô
hội, những nhà buôn to lớn duy ở đây là nhiền hơn.” Trong lịch sử
tồn tại, Cù lao Phố là nơi phát triển nhiều ngành nghề như dệt, làm
chiếu, làm gốm, mộc, đúc đồng, làm pháo hay chăn nuôi tằm, trồng mía nấu
đường… Đặc biệt, sản phẩm đường ở Cù lao Phố được xem là hàng đặc sản,
được nhiều quốc gia lân cận đặt mua. Ngoài nguồn hàng cung cấp tại chỗ,
thương cảng Cù lao Phố còn tiếp nhận các nguồn hàng từ các địa điểm vệ
tinh vùng miệt thượng và hạ sông như Phước Thiền, Bến Gỗ, Bến Cá là
những nơi có những người Hoa thạo nghề buôn bán sinh sống. Có thể nói,
thương cảng Cù lao Phố là nơi hội nhập, phát triển nhiều mặt, trong đó
mạnh mẽ nhất là thương mại thời bấy giờ ở Nam Bộ với cảnh: “…phố chợ
thương mãi, giao thông với người Tàu, người Nhật Bản, Tây Dương, thuyền
buôn tụ tập đông đảo, phong hóa Trung Quốc từ đây làm tỏa khắp vùng
Giản Phố vậy”.
Thế
nhưng, thương cảng sầm uất, kiến trúc phong quang của Cù lao Phố bị ảnh
hưởng và tàn phá nặng nề qua cuộc bạo loạn của khách thương người Phúc
Kiến là Lý Văn Quang năm 1747 và đặc biệt trong cuộc tranh chấp giữa Tây
Sơn và Nguyễn Ánh vào năm 1776: “Từ đấy, chỗ này biến thành gò
hoang, sau khi trung hưng, người ta tuy có trở về nhưng dân số không
được một phần trăm như lúc trước”. Qua thời cuộc bể dâu, thời kỳ
hoàng kim của Cù lao Phố tức xứ đô hội của Nông Nại đại phố đã trở thành
dĩ vãng. Dấu vết của thương cảng, đô thị cổ vào loại bậc nhất ấy của
Nam Bộ đã bị xóa nhòa. Những điều sử sách ghi chép về thương cảng nầy
giúp cho thế hệ hậu sinh khi đến với mảnh đất nầy biết rằng: Ở đây, đã
có một thời…
Làng
nghề đá Bửu Long nổi tiếng ở Biên Hòa do cộng đồng người Hoa bang Hẹ
đến tạo dựng. Từ khi hình thành cho đến nay, những sản phẩm đá của làng
nghề Bửu Long, đặc biệt là các công trình, tác phẩm mang tính nghệ thuật
điêu khắc của làng nghề đã có mặt nhiều nơi trên vùng đất Nam Bộ. Những
sản phẩm từ những bàn tay nghệ nhân làng đá Bửu Long xuất hiện trong
các thành tố kiến trúc chủ yếu từ những công trình kiến trúc tín ngưỡng
cổ xưa như Thất phủ cố miếu (miếu Quan đế), Thiên hậu cổ miếu (miếu Tổ
sư nghề đá)…cho đến các sản phẩm nghệ thuật, trang trí, kiến trúc nhà ở,
thờ tự, tượng đài hoành tráng hiện nay.
Hành trang đến với vùng đất phương
Nam của
nhóm lưu dân người Hoa ngoài sự cần cù, khéo léo trong buôn bán để mưu
cầu cuộc sống no ấm, họ còn mang trong tâm thức mình hình ảnh của tổ
tiên, thần thánh, tập tục, tín ngưỡng. Do vậy, khi đã ổn định và thành
công trong cuộc sống, người Hoa xây dựng nhiều ngôi chùa, đền miếu để tỏ
lòng thành, ghi nhớ công lao đối với tổ tiên, phúc thần. Họ quan niệm
rằng, chính tổ tiên, thánh thần đã giúp đỡ, chở che cho cộng đồng người
Hoa trong suốt chặng hành trình đầy hiểm nguy và con đường lập nghiệp
nơi vùng đất mới.
Tín ngưỡng thờ Quan thánh đế quân với nhiều tên gọi khác nhau đều để
chỉ nhân vật lịch sử thời Tam quốc là Quan Vân Trường, được cụ thể hóa
bằng các đền, chùa khá phổ biến trên vùng Đồng Nai. Nói cách khác, có
thể căn cứ vào sự tồn tại hoặc tàn tích của những ngôi miếu hoặc chùa
thờ Quan công là nhận diện được nơi có cộng đồng người Hoa sinh sống
trong lịch sử 300 năm của xứ Đồng Nai – Gia Định. Ở Đồng Nai, tồn tại
nhiều ngôi chùa Ông, mà điển hình là các địa điểm Phước Thiền, Bến Gỗ,
Cù lao Phố, Bến Cá. Hiện nay, kiến trúc hiện tồn của chùa Ông chỉ còn ở
Phước Thiền, Bến Gỗ và Cù lao Phố. Ở Bến Cá, ngôi đền thờ Quan công đã
bị tàn phá bởi chiến tranh. Chùa Ông ở Cù lao Phố là một kiến trúc điển
hình, là cơ sở văn hóa tín ngưỡng được xây dựng sớm và có quy mô lớn của
người Hoa. Theo một số sử sách (Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí),
đây là một miếu điện nguy nga ở phía nam châu Đại Phố huyện Phước Chánh
(tức Biên Hòa ngày nay), trông ra sông Phước Long (sông Đồng Nai), đền
đài rộng rãi, tráng lệ với hai Hội quán Phước Châu và Quảng Đông. Di
tích được xây dựng vào năm 1884 do bảy phủ người Hoa đóng góp công, của
(Phước Châu, Chương Châu, Truyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu, Quỳnh
Châu và Ninh Ba). Vì vậy, chùa Ông còn có tên gọi là “Thất phủ cổ miếu”.
Kiến trúc chùa được xây theo lối chữ khẩu, bố trí kiểu “nội công ngoại
quốc”. Trong chùa lưu giữ một tập hợp tượng thờ đông đảo về hệ thống
thần linh chính yếu của cộng đồng người Hoa: tín ngưỡng thờ Quan công,
thờ Thiên hậu, Mẹ sanh Mẹ độ, Phúc thần, Tài thần... Di tích là một công
trình kiến trúc độc đáo, dù đã qua bao đợt trùng tu. Hiện nay, mặt tiền
chùa được trang trí đặc sắc bởi những quần thể tượng gốm, đá liên hoàn
sắc sảo, thể hiện những lễ hội của người Hoa: hát tuồng, hát bội, múa
hát cung đình, đả cầu... Mái hiên di tích dựng hai tượng
gốm ông Nhựt, bà Nguyệt tạo nên nghi dung đặc trưng của một ngôi chùa
Hoa, bên cạnh những thành tố nghệ thuật điêu khắc gỗ, đá... thể hiện qua
các hoành phi, liễn đối cùng góp phần tạo nên giá trị nghệ thuật của di
tích. Vượt lên trên cái hiện tồn của kiến trúc di tích, chùa Ông hay
Thất phủ cổ miếu là cái tâm, cái lòng thành của cộng đồng người Hoa muốn
hướng đến: đó là lòng chung thủy, danh dự, sự công minh chánh trực,
lòng độ lượng bao dung, nghĩa khí... mà chính họ chọn Quan công là vị
đại diện thần linh để tôn thờ.
Bên
cạnh tín ngưỡng thờ Ông qua đền chùa, cộng đồng người Hoa còn thờ các
vị nhân thần khác có gốc tích từ quê nhà. Di tích Phụng Sơn tự ở thành
phố Biên Hòa là một điển hình của người Hoa bang Phúc Kiến. Họ tôn thờ
Quảng Trạch tôn vương, một con người xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ
nhưng có chí hướng ở vùng Phụng Sơn, Nam An, sống giúp dân dẹp loạn,
chết oai linh hiển hách, bảo vệ dân làng nên người Hoa Phúc Kiến suy tôn
ông lên bậc thánh, gọi là Quách Thánh vương.
Đồng
thời với tín ngưỡng thờ Ông, cộng đồng người Hoa còn tín ngưỡng thờ Bà –
mà nhân vật được tôn thờ là bà Thiên hậu. Hầu hết các di tích tín
ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai đều có miếu thờ Bà bên cạnh. Nguyên ủy,
bà Thiên hậu là một nhân vật tài năng nhưng chết trẻ và thường hiển linh
cứu độ người dân đi biển khi gặp dông bão, tai ương. Có lẽ, cảm nhận
được sự linh ứng, và cũng có thể quan niệm chính Bà đã độ trì giúp cho
họ trong chuyến vượt biển tìm đến nước Nam mà cộng đồng người Hoa ở vùng
đất Đồng Nai đã không quên lập miếu thờ Bà ở Đồng Nai. Miếu hoặc chùa
thờ Bà Thiên hậu khá phổ biến, nhưng có lẽ di tích tiêu biểu và quy mô
thì phải kể đến Thiên hậu cổ miếu (còn có tên gọi chùa Bà) ở Bửu Long,
thành phố Biên Hòa. Nơi đây vốn là một ngôi miếu nhỏ của những người Hoa
bang Hẹ làm nghề đá tạo dựng để thờ tổ sư Ngũ Đăng. Sự linh ứng của Bà
Thiên hậu thu hút nhiều người tôn thờ nên người Hẹ đã rước Bà vào phối
tự tại di tích. Đây là một công trình kiến trúc khá độc đáo được phối
hợp bởi nhiều thành tố xây dựng nhưng chủ yếu vẫn là kiến trúc đá, được
thể hiện tinh xảo bởi các nghệ nhân của người Hoa bang Hẹ.
Cùng
với thời gian, những dấu tích của cộng đồng người Hoa những ngày đầu
mới định cư ở Đồng Nai gần như không còn nhiều. Thế nhưng, trong mạch
nguồn của cuộc sống trên vùng đất này, thời kỳ quá khứ ấy luôn có bóng
hình trong cuộc sống hiện tại, và từ lâu đã tạo nên một phần nguồn chảy
không bao giờ tắt. Mà sự lưu giữ, khắc ghi ấy là cả một ký ức sống động
của cả một cộng đồng, được bao thế hệ lưu giữ, nối truyền. Thế hệ những người Hoa đi trước đã ra đi và những gì họ tạo dựng buổi đầu đã
mai một với thời gian, âu cũng là cái lẽ thường tình của vạn vật. Nhưng
cái còn lại chính là những hình ảnh, giá trị tốt đẹp của cuộc sống luôn
được khắc ghi trong lòng của các thế hệ nối tiếp nhau.
Nhân
vật lịch sử Trần Thượng Xuyên - người có công nhất trong việc dẫn đoàn
người Hoa nhóm Cao, Lôi, Liêm đến định cư ở Đồng Nai, được suy tôn,
ngưỡng vọng không chỉ riêng người Hoa mà còn cả người Việt. Ngôi chùa
làng Thanh Lương khiêm tốn đối diện phía Tây Cù lao Phố (phường Bửu Hòa,
thành phố Biên Hòa) là nơi thờ Phật nhưng vẫn còn lưu thờ bài vị về vị
tướng quân có công khai phá vùng đất này. Di tích đình Tân Lân là cơ sở
tín ngưỡng của dân làng vùng đất Biên Hòa tôn thờ phúc thần Thành
hoàng Trần Thượng Xuyên. Di tích là công trình kiến trúc nghệ thuật độc
đáo mà sự thể hiện là mảnh tượng gốm trang trí trên mái nóc tiền đình.
Đó là kiểu kiến trúc dung hợp Hoa - Việt được tạo tác bởi bàn tay khéo
léo của những người thợ Biên Hòa. Đình Tân Lân còn có tên gọi Đền thờ
Trần Thượng Xuyên là di tích kiến trúc nghệ thuật và danh nhân lịch sử
mà giá trị của nó đã được nhà nước liệt hạng. Hằng năm, các ngày lễ vía ở
đền thờ đã thu hút đông đảo người dân ở Biên Hòa đến dự với lễ thức
trang nghiêm và hội hè náo nhiệt.
Dấu
ấn của người Hoa còn thể hiện trong các kiến trúc chùa cổ ở Đồng Nai mà
chủ yếu là vùng Biên Hòa. Những ngôi danh lam Bửu Long, Đại Giác, Long
Thiền hay Kim Cang của vùng Bến Cá tương truyền do tổ sư Nguyễn Thiều và
các đệ tử khai sơn lập thạch. Vấn đề niên đại tạo dựng của chùa chiền
hay chủ nhân khai mở vẫn còn đó. Nhiều điều cần tìm hiểu thêm, song phải
xác định rằng: ảnh hưởng của dòng Phật giáo truyền từ phương Bắc theo
bước chân của những nhóm người Hoa qua các thời kỳ vẫn để lại những nét
tiêu biểu trong sự hợp dung kiến trúc, bài trí tại các di tích cổ ở Đồng
Nai dẫu đã qua bao lần trùng tu, trùng kiến.
Tất
cả mọi thứ rồi sẽ qua đi, kể cả con người. Song, con người “trường tồn”
có lẽ nhờ vào sự truyền giữ và phát huy của ý thức từ thế hệ này qua
thế hệ khác. Nói một cách khác, nhóm cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai đã
hơn ba thế kỷ qua cũng không là một ngoại lệ. Họ đã để lại dấu ấn của
mình trên vùng đất này bằng chính con người của cộng đồng mình.
Cộng
đồng người Hoa đến với Đồng Nai buổi ban đầu đầy khó khăn gian khổ
trong cả một chặng đường dài khai khẩn và họ đã nhanh chóng thích nghi
với hoàn cảnh, môi trường để vươn lên, khẳng định vai trò của mình trong
sự nghiệp phát triển của vùng đất này. Nghề làm gốm, lu của nhóm người
Hoa ở Tân Vạn, làm nghề đá của bang Hẹ ở vùng Bửu Long hay những phố chợ
buôn bán ở Phước Thiền, Bến Gỗ... đã minh chứng cho sự thích ứng của
người Hoa. Không chỉ có những thế mạnh về kinh tế, người Hoa còn có tinh
thần ham học hỏi, cầu tiến nên một số người tài giỏi đã được các chúa
Nguyễn tin dùng, ban phong những chức vị quan trọng, trở thành sứ thần,
trọng thần của triều đình, gánh vác những trọng trách của xã hội như
Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định với huyền thoại về “Gia
Định tam gia thi” hay “Gia Định tam hùng” Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh, Châu
Văn Tiếp đầy nghĩa khí và tinh thần thượng võ trung quân, giúp chúa
Nguyễn tạo dựng cơ đồ từ vùng đất Đồng Nai – Gia Định.
Đi
tìm dấu ấn của cộng đồng người Hoa ở vùng Đồng Nai là một cuộc hành
hương mang ý nghĩa thiêng liêng. Qua những dấu tích kiến trúc, văn hóa
vật chất hiện tồn và cả những nét sinh hoạt văn hóa thông qua các tập
tục, tín ngưỡng, ngành nghề, lễ hội... cộng đồng người Hoa đã tạo nên
một sức sống mãnh liệt trong dòng chảy của lịch sử xứ Đồng Nai. Chính
trong dòng chảy ấy, người Hoa đã hòa vào mạch của một nguồn nước khi
chọn Việt
Nam, chọn
Đồng Nai làm đất sống. Từ thân phận của lưu dân kiều ngụ trở thành công
dân của quê hương mới, qua nhiều thế kỷ trộn hòa dòng huyết quản Việt –
Hoa, người Hoa đã dung hòa nền văn hóa mà họ mang theo vào văn hóa
Việt. Tiêu biểu cho sự kết hợp hài hòa của hai dòng văn hóa ấy là nhân
vật Trịnh Hoài Đức. Một con người mang trong huyết quản của mình dòng
máu Hoa - Việt. Cuộc đời và sự nghiệp của ông trở thành một nhân cách
lớn đáng cho nhân thế noi theo. Xứ Đồng Nai quê hương ông là nơi ông
chọn để trở về trong giấc ngủ vĩnh hằng của cuộc đời.
Những dấu tích một thời của người Hoa gần như ngày càng mất đi tính bản nguyên nhưng dấu ấn của một cộng đồng vẫn còn đó. Và nó thực sự được bảo lưu trong cuộc sống cộng đồng hiện tại dù đã trải qua bao biến động của lịch sử. Vùng đất mới xa lạ trước đây giờ đã trở thành quá đỗi thân quen, là quê hương thực sự. Thạc sĩ Phan Đình Dũng |
Làng nghề & Tập quán >