Kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai (1698 - 1998), tỉnh Đồng Nai xây dựng nhà bia để tưởng nhớ, ghi công những tiền nhân có công khai phá, xây dựng, bảo vệ và làm rạng danh đất Biên Hoà xưa – Đồng Nai ngày nay. Công trình nhà bia được xây dựng trong công viên di tích Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (đình Bình Kính) thuộc xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà. Lễ khánh thành Nhà bia được tổ chức ngày 15 tháng 12 năm 1998. Tác giả bài văn bia là nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng. Với lối văn biền ngẫu, cách tân, ngắn gọn mà đầy đủ, giàu chất thơ, đậm chất sử, chuẩn xác và hữu tình, trí tuệ và trung thực, nội dung văn bia thể hiện được tình cảm của người dân Biên Hoà – Đồng Nai đối với quá khứ hào hùng của tiền nhân, của Hào khí Đồng Nai. Những sự kiện lịch sử, địa danh, nhân vật… được đề cập trong văn bia một cách cô đọng, phản ánh trung thực diễn trình của đất, người Đồng Nai trong suốt độ dài và chiều sâu của lịch sử 300 năm. Toàn bộ nội dung văn bia như sau: ” Sách sử chép rằng: 300 năm trước, từ cửa sông Soài Rạp đến thượng nguồn Đồng nguyên, núi sông một dải mịt mờ chưa phân định… Rừng hoang chờ đợi mỏi mòn một áng khói lam chiều từ bếp ấm, sông xanh khao khát một tiếng chèo khua. Cọp, sấu thét gầm: muông thú chưa người cai quản; Mặt đất âm u: không kẻ vạch lá bẻ gai. Nhà Bè nước chảy chia hai, một hôm ngã ba sông vang tiếng hát; bìa rừng lặng gió, đêm nọ, ngân một khúc ầu ơ.. Rựa chặt rừng hoang, đánh lửa đốt cây, gieo hạt: một hộc thóc gặt hơn trăm hộc. Nhất thóc nhì cau; cơm Nai – Rịa, cá Rí – Rang tiếng đồn tứ xứ. Cù lao Phố bôn phương tụ hội; chẻ đá lát đường, dựng lầu xây phố; tàu hải dương mua bán chật sông – xứ đô hội rằng Nam Trung không đâu sánh kịp. Ngày lại tháng qua, năm Mậu Dần, tiết xuân còn ấm, tiếng trống chiêng quan quân vào đến: Lễ Thành hầu cắm gươm xuống đất, định danh phủ Gia Định tù đây; vạch dọc xẻ ngang lập thôn, lân, xóm, ấp; xem địa cuộc phân thnàh hai huyện: lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Biên Trấn – án ngữ địa đầu vùng đất mới! Đất đã có tên, làng thôn có đình, chùa, miếu võ: hát xướng âu ca câu quốc thái dân an; Văn thánh miếu rỡ ràng, chốn lều tranh vách lá: ê a chữ nghĩa thánh hiền. Đặng Đại Độ bêu lũ hại dân tanh hôi giữa chợ; Nguyễn Thị Tồn gióng trống kêu oan, ba hồi sấm động trước cổng đế đô. Trịnh Hoài Đức, Bùi Hữu Nghĩa…đèn sách dùi mài, đưa xứ sở bước lên hàng văn vật; Thủ Huồng, Thị Vải…kẻ tâm thành, người trinh liệt ghi sự tích cho núi, cho sông. Những tưởng: trăm năm vỡ ruộng: đất điền mặc sức chim bay; hằng tin: núi rộng sông dài, trên bến dưới thuyền, phố chợ thênh thang, sung mậu. Nào ngờ đâu: Bến Nghé của tiền tan bọt nước; tàu sắt, súng đồng giặc đến: Đồng Nia tranh ngói nhiốm màu mây. Muôn người như một, chẳng đợi quan đòi, trống giục, liều mình xông tới, một lưỡi dao phay cũng quyết ra tay dốc sức đoạn kình. Hỡi ôi! Đại đồn Chí Hoà thất thủ, Tán lý sa cơ, máu đỏ binh nhung; Biên Hoà nước mắt ròng ròng, thắp nén hương thơm, lập đền thiêng thờ hồn tử sĩ. Giặc cậy súng to, tàu lớn lấn vô: giăng dâu thép, vẽ hoạ đồ muốn biến dân ta thành trâu thành ngựa; nào hay đâu Lục tỉnh Nam Kỳ, cờ Bình Tây lẫy lừng khắp chốn: dưới Long Thành, Nguyễn Lãnh binh dấy quân ứng nghĩa; trên Bưng Kiệu, Đàon Văn Cự mưu đại sự phục thù. Trại Lâm trung son đỏ tấm lòng: sinh vi tướng, tử vi thần – sống chết anh hùng nào nại. Trời Đông Phố, sáng chiều phủ kín mây đen, bọn Lang – sa xi xô qua lại; rừng cao su, bao kẻ kiếp mọi người, đám thầy chú vẩy roi da, inh ỏi thét. Máu lệ chan hoà, hạt giống đỏ Phú Riềng nẩy mầm từ ấy; cờ búa liềm phấp phới nơi hãng xưỡng, làng thôn:”Hỡi những người nô lệ ở thế gian, vùng đứng dậy, trận này là trận cuối”. Tháng Tám cách mạng thành công: Độc lập – Tự do – tiếng hò reo vỡ ngực. Mùa Thu năm ấy, sao vàng xao xuyến: Chiến khu Đ vang dội “ Tiến quân ca” Rừng núi giang tay, đón người yêu nước. Kẻ tập bắn, người làm thơ, rèn gươm thiêng thề sống chết với quân thù. Tập kích Biên Hoà: Đất ta đâu để giặc thù chiếm đóng; chặn đánh La Ngà: cắt lộ giao thông không cho chúng lại qua. Trận Đồng Xoài vừa dứt, trận Trảng Bom,, Tràng Táo bùng lên; tháp canh, lô cốt chắc bền:đêm hăm hai – một phát tan thành bình địa (…) Thực dân Pháp hết hồn ôm đầu bỏ chạy;đế quốc Mỹ hung hăng ồ ạt kéo vào. Trận Nhà Xanh báo cho giặc biết: đất này không chỗ dung thân; khám Tân Hiệp tan tành, nói cho nguỵ rõ: rằng dây kẽm gai, tường đá không giam được những người yêu nước. Năm sáu bốn: Sân bay Biên Hoà nằm trong họng cối; năm sáu sáu: Tổng kho Long Bình vật mọn trong túi đặc công. Rừng Sác, Lòng Tàu…sông rạch ấy, tàu binh, tàu chiến đâu dễ vào ra; Thành Tuy Hạ mấy lần kho đạn nổ tung như trời long đất lở. Mậu Thân, thị thành lửa dậy: chiến thắng ắt về ta. Bảy lăm, Xuân Lộc – cửa thép giặc vỡ toang: đón đại quân Giải phóng. Ba mươi năm sạch bóng quân thù. Độc lập, Tự do: có Bác Hồ trong ngỳa vui đại thắng. Ba mươi năm, mồ hôi xương máu chép lại một trang; nghìn năm, sông núi thái bình, những muốn đời sau nhớ lại. |