Làng nghề này trải dài theo đường Huỳnh Văn Nghệ thuộc phường Bửu Long. Những người Hoa bang Hẹ từ Trung Quốc đến sinh sống đã hình thành nên làng nghề và phát triển cho đến ngày nay. Nhiều thế hệ gia đình của người Hoa duy trì nghề truyền thống này với những cơ sở được phát triển, than gia nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật ở Nam Bộ. Nghề được truyền theo kiểu cha truyền con nối với những bí quyết trong các công đoạn chế tác sản phẩm. Những người làm nghề điêu khắc đá đòi hỏi sự cẩn trọng,tính kiên trì, cần cù, tỉ mỉ và sự sáng tạo với tính mỹ thuật cao. Sản phẩm điêu khắc từ làng nghề Bửu Long rất phong phú, chúng có mặt hầu hết trong các gia đình từ vật dụng, đồ dùng sinh hoạt (cối đá, ly, chén, bình đựng, bộ cờ….), các cấu kết kiến trúc trong nhà ở, chùa chiền, đình miếu (tán cột, kèo ngang….) hay các mảng trang trí, đồ thờ cúng (bát nhang, lư hương, đèn, mảng hoa văn, tượng linh thú…) trong tín ngưỡng, tôn giáo (tượng thờ, khám thờ, linh vị, bia, nhà mồ….). Tùy theo tính chất, công năng của của từng loại sản phẩm, nghệ nhân thực hiện đề tài chạm khắc phù hợp, mang tính mỹ thuật. Nghề làm đá Biên Hoà nổi tiếng từ mấy trăm năm trước. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép: “Ở đầu phía tây Cù Lao đại phố, lúc đầu khai thác, tướng quân Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc tới năm dặm, chia vạch ba đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót gạch xanh, đường rộng bằng thẳng”. Người Pháp cũng đã nhắc đến đá ong từ cuối thế kỷ XIX. Người Việt đi khẩn hoang mang theo kỹ thuật khai thác đá ong từ trung du Bắc Bộ vào Đồng Nai rất sớm. Đá ong lót đường ở Cù Lao Phố là những chứng tích rõ ràng. Làng cổ Bình Đa có bến Đá, nơi ghe thương hồ các nơi đến ăn hàng là sản phẩm đá ong chở đi bán cho cả vùng đất phương Nam vài ba trăm năm trước. Monogrphie de la province Bienhoa (1901) cho biết: “Cả tỉnh có 150 hầm đá đặc biệt ở các làng Bình Ý, Tân Phong, Nhựt Thạnh, Tân An, Tân Bản, Bình Đa, Tân Mai, Vĩnh Cửu, Bình Dương, Long Điềm, Phước Tân, An Lợi, Phước Kiểng. Người Việt khai thác các hầm đá ong đem lại lợi nhuận cho các nhà thầu khoán Âu hay Tàu. Đá Biên Hoà dùng vào vài kiến trúc (mộ, tường rào, bến sông…), còn đá vụn dùng trải đường hoặc lát đường tuyệt hảo, …” Nghề khai thác đá xanh vốn đã có từ lâu trên vùng đất Đồng Nai xưa, nhưng cho đến năm 1885, mạng lưới đường bộ và đường sắt được mở mang, nhiều công sở được xây dựng thì nghề làm đá xanh (đá granit) phát triển. Đá xanh làm đường ở Cù Lao Phố lấy từ núi Lò Gốm (núi Bửu Phong hay đồi Lò Gạch). Monogrphie de la province Bienhoa viết: “Tất cả các hầm đá đều khai thác lộ thiên. Nhà thầu khoán được tự do làm, chỉ phải chịu chi phí sửa và duy tu đường vì việc chuyên chở của họ dẫn đến việc xuống cấp… 80 cái ở các làng Bạch Khôi, Bình Điện, Tân Lại, Bình Thạch, Bình Trị. Việc khai thác nằm trong tay hơn 400 người Tàu…” Người Việt đầu tiên làm nghề khai thác đá xây dựng là ông Võ Hà Thanh (1876-1947), người Quảng Ngãi. Ông đã mở hầm khai thác đá xây dựng và làm ăn rất phát đạt. Cầu Hang là công trình do Võ Hà Thành trúng thầu xây dựng (cầu trên quốc lộ 1A) năm 1902-1903. Sau này, nhiều người tham gia vào việc mở hầm khai thác đá granit (dạng đá hoa cương) ở nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh Biên Hoà như: Bình Thạch, Hoá An, Bửu Hoà… An Giang, Bà Rịa, Tây Ninh…. Song vùng Bửu Long của Biên Hoà được biết đến như là cái nôi của nghề đá ở Đồng Nai - Gia Định với lịch sử mấy trăm năm từ khi hình thành thương cảng Cù Lao Phố. Trải qua hơn ba thế kỷ tồn tại, nhiều thăng trầm làng nghề đá Bửu Long đã sản sinh ra nhiều nghệ nhân tài hoa như Hà Kiều, Dương Văn Hai, Ngụy Đức Mỹ, Phạm Thành Đẩu… Nhiều công trình kiến trúc trên đất Biên Hòa (miếu Tổ sư/ chùa Bà thiên Hậu, Thất phủ cổ miếu/ Chùa Ông, Văn miếu Trấn Biên) và nhiều cụm tượng đài ở các địa phương trên cả nước có sự đóng góp của bàn tay tài hoa của các nghệ nhân đá Biên Hoà. |