I. Vài nét
về người Hoa ở Đồng Nai
Do nhiều biến
động của xã hội, nhiều dân tộc từ các nơi khác đã tìm đến vùng đất Đồng Nai
sinh sống trong nhiều thời kỳ lịch sử. Sự cộng cư nhiều thành phần dân tộc nói
chung, trong đó có cộng đồng người Hoa nói riêng đã góp phần làm đa dạng sắc
thái tộc người, sự phong phú về văn hóa của Đồng Nai.
Tại Đồng Nai,
sự có mặt của người Hoa từ thế kỷ thứ 17; cụ thể được định vị vào năm 1679. Sự
kiện này được ghi chép trong “Đại Nam thực lục tiền biên” và một số sử sách của
triều Nguyễn. Vào mùa xuân, tháng Giêng, năm 1679 (Kỷ Mùi), Tổng binh trấn thủ
các địa phương thủy lục ở Long Môn tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) là Dương Ngạn
Địch và phó tướng Hoàng Tiến; cùng Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm
là Trần Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000
quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng xin chúa Nguyễn
cho tỵ nạn trên đất Việt. Đây là nhóm người Hoa trung thành với nhà Minh, không
chịu thần phục nhà Thanh nên đã nổi dậy phất cờ “bãi Mãn phục Minh” nhưng bất
thành. Thấy họ lâm vào cảnh thế cùng lực kiệt, chúa Nguyễn cho phép họ nhập cư.
Chúa Nguyễn tiếp đãi nhóm người Hoa này và sai các tướng Vân Trình, Văn Chiêu
hướng dẫn cho họ vào đất Đông Phố để mở mang, sinh sống. Binh thuyền tướng sĩ
của Dương Ngạn Địch theo cửa Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu đến định cư ở Mỹ Tho;
binh lính tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Gìơ
đến định cư ở Bàn Lân xứ Đồng Nai (tức Biên Hòa ngày nay).
Bắt đầu từ
cuối thế kỷ XVII cho đến những năm cuối thập niên 70, thế kỷ XX, số lượng người
Hoa đến vùng Biên Hòa -Đồng Nai nói riêng ngày càng tăng qua nhiều đợt di dân
mỗi khi Trung Quốc hay các vùng người Hoa sinh sống có nhiều biến động về xã hội.
Trong đó, có những mốc đáng ghi nhận là từ sau năm 1954 và sau năm 1975. Từ sau
năm 1975, có 3.331 hộ gồm 17.647 khẩu đến đinh cư tại Đồng Nai.
Theo thống kê
dân số (1/4/1999) thì tổng số người Hoa ở Đồng Nai là 102.331 người. Người Hoa
có mặt hầu hết các đơn vị phường, xã, thị trấn của các huyện, thành phố thuộc
địa bàn Đồng Nai.
Tại các
huyện, số người Hoa cư trú phần lớn là cộng đồng người Hoa đến từ sau năm 1954.
Huyện Định Quán có số người Hoa đông nhất tỉnh với 32.435 người; tập trung
nhiều ở các khu vực: xã Phú Lợi (10.824 người), xã Phú Vinh (9.259 người), xã
Phú Tân (5.394 người), xã Thanh Sơn (2.536 người), xã Phú Túc (1.131 người).
Huyện Thống
Nhất đứng hàng thứ hai với 21.514 người; các xã có số lượng người Hoa trên con
số ngàn gồm: Xã Bàu Hàm (6.640 người), xã Sông Thao (3.825 ngươi), xã Cây Gáo
(3.245 người), xã Thanh Bình (3.168 người), xã Sông Trầu (1.771 người).
Huyện Xuân
Lộc có 19.205 người; tập trung tại các xã: Bảo Bình (6.460 người), Xuân Tây
(4.164 người), Lang Minh (1.889 người), Xuân Bảo (1748 người).
Huyện Long
Khánh có 10.499 người; trong số này có một bộ phận đến cư trú vào trước năm
1954. Các địa bàn tập trung đông đảo là: thị trấn Xuân Lộc (4.071 người), xã
Bình Lộc (1.508 người), xã Nhân Nghĩa (1.069 người).
Huyện Tân Phú
có 8.827 người; các địa bàn tập trung đông đảo người Hoa là: thị trấn Tân Phú
(3.871 người), xã Phú Bình (1.490 người), xã Phú Lộc (1.325 người).
Thành phố
Biên Hòa có 6.097 người Hoa. Trong số này, nhóm người Hoa đến trước năm 1954
chiếm đa số và có mặt hầu hết tại địa bàn xã, phường và mỗi bang đều có cơ sở
tín ngưỡng chung cũng là hội quán của cộng đồng. Nhóm cộng đồng người Hoa đến
sau năm 1954 cư trú chủ yếu tại địa bàn phường Tân Phong (1.029 người) và Bình
Đa (590 người).
Ba huyện Long
Thành, Vĩnh Cửu, Nhơn Trạch có số lượng người Hoa thấp trong tỉnh; trong đó
huyện Nhơn Trạch thấp nhất (371 người). Huyện Long Thành có 1.761 người, huyện
Vĩnh Cửu có 1622 người. Tại địa bàn Vĩnh Cửu không có cơ sở tín ngưỡng mang
tính cộng đồng của người Hoa.
Trên toàn
tỉnh Đồng Nai, hai xã không có người Hoa cư trú là: xã Gia Tân I (huyện Thống
Nhất) và xã Bình Hòa (huyện Vĩnh Cửu).
Qua khảo sát
và căn cứ từ nhiều cứ liệu cho thấy nổi lên các giai đoạn chính trong quá trình
hội nhập của người Hoa trên địa bàn Biên Hòa.
- Giai đoạn từ cuối thế kỷ XVII cho đến trước
năm 1954: Đây là giai đoạn mà các nhóm cộng đồng người Hoa từ Trung Quốc sang
với nhiều đợt rải rác. Hầu hết, số người Hoa này từ các tỉnh vùng Hoa Nam,
Trung Quốc đến Nam Bộ bằng đường biển, sau đó định cư nhiều nơi, trong đó có
địa bàn tỉnh Biên Hòa.
- Giai đoạn
từ những năm cuối thập niên 50 đến năm 1975, thế kỷ XX: Đây là giai đọan mà
cộng đồng người Hoa di dân với quy mô lớn. Họ có nguồn gốc từ các tỉnh giáp
biên giới phía Bắc Việt Nam, đã đến địa bàn Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh của Việt
Nam sinh sống. Từ năm 1954, họ di cư vào miền Nam đến định cư tại vùng Sông Mao
(nay thuộc xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) từ giữa thập niên 50,
thế kỷ XX, dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Do nhiều biến động xã hôi, thời cuộc, từ
vùng Sông Mao, một số người Hoa bằng đường bộ, nhiều đợt đến định cư tại các
địa bàn thuộc tỉnh Biên Hòa.
- Giai đoạn
từ sau ngày đất nước thống nhất (năm 1975), có thêm một số cộng đồng người Hoa
từ các tỉnh ở miến Bắc Việt Nam và các địa phương khác trong miền Nam di dân
đến địa bàn tỉnh Đồng Nai. Những người Hoa từ các tỉnh miền Bắc di dân theo thể
tự do. Một bộ phận người Hoa từ Thành phố Hồ Chí Minh di dân theo chính sách
phát triển kinh tế mới.
Tín ngưỡng
cộng đồng của người Hoa ở Đồng Nai cũng rất phong phú. Tùy theo đặc điểm mỗi
bang, hội hay dòng họ mà người Hoa xây dựng những cơ sở thờ tự để cộng đồng thờ
bái, cúng viếng. Cộng đồng người Hoa sinh hoạt theo tổ chức Bang thì hệ thống
thần linh thờ chính là Quan Thánh Đế Quân, Thiên Hậu, Quảng Trạch Vương. Người
Hoa sinh hoạt theo tổ chức hội miếu thì hệ thống thần linh chủ yếu là Thổ Thần,
Quan Âm. Ngoài các đối tượng thờ chính thường tùng tự nhiều vị nhân thần khác.
Hơn ba thế kỷ kể từ khi đợt di dân đầu tiên đến Đồng Nai từ cuối thế kỷ thứ
XVII, cộng đồng người Hoa đã có những đóng góp đáng kể trên vùng đất mới mà họ
chọn làm nơi sinh sống, cư trú. Mặc dù đã trải qua bao thăng trầm, biến động
của xã hội, những thế hệ người Hoa đã kề vai sát cánh với các dân tộc cộng cư
trên đất Đồng Nai ra sức xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
II. Vài nét
về tín ngưỡng, lễ hội dân gian của người Hoa
Cho đến nay,
dù chưa biết đích xác những lưu dân Việt đặt chân lên xứ Đồng Nai vào thời điểm
nào, nhưng chắc chắn rằng, họ đã có mặt trước năm 1623, khi Chúa Nguyễn lập đồn
thu thuế tại PreiKor (tức thuộc địa phận Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Còn
sự có mặt của người Hoa thì được sử sách chép với mốc thời gian định vị rõ
ràng. Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cho biết: Tháng 5 năm
Kỷ vị (1679), Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, bầy tôi nhà Minh, không
phục nhà Thanh đã dẫn 3.000 người với 50 chiếc thuyền nhập cửa biển Tư Duy (Đà
Nẵng), xin định cư ở nước ta. Chúa Nguyễn chấp thuận và sai các trướng Vân
Trình, Văn Chiêu hướng dẫn cho vào đất Đông Phố. Nhóm Long Môn của Dương Ngạn
Địch theo cửa Đại, cửa Tiểu đến định cư tại Mỹ Tho. Nhóm Cao, Lôi, Liêm của
Trần Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Giờ đến sinh sống ở xứ Bàn Lân (tức Biên
Hòa ngày nay).
Ba trăm năm
có lẻ, kể từ khi đặt chân đến “ Đồng Nai xứ sở lạ lùng, con chim kêu phải sợ,
con cá vùng phải kinh“, nhóm người Hoa đầu tiên bắt đầu tạo lập cuộc sống trên
vùng đất mới. Họ cùng với lưu dân người Việt, số lưu dân đến định cư trước, cần
mẫn khai khẩn mưu cầu một cuộc sống ấm no hơn, hạnh phúc hơn nơi mà họ đã ra đi
dù trước mắt còn nhiều chông gai trắc trở. Bao thế hệ người Hoa từ đoàn di dân
buổi đầu tiên trên đến những đợt di cư do nhiều biến cố xã hội sau này (trong
đó có cộng đồng người Hoa trước đây sinh sống tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam,
đến Đồng Nai từ cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, thế kỷ XX) đã cùng nhau
khẩn khai, xây dựng vùng “tị địa“ trước xa lạ trở thành “ quê hương “ thân
quen, bao dung họ.
Hành
trang đến với vùng đất phương Nam của nhóm lưu dân người Hoa ngoài sự cần cù,
nhẫn nại, khéo léo trong buôn bán để mưu cầu cuộc sống no ấm, họ còn mang trong
tâm thức mình hình ảnh của tổ tiên, thần, thánh, tập tục, tín ngưỡng. Do vậy,
khi đã ổn định và thành công trong cuộc sống, người Hoa xây dựng nhiều ngôi
chùa, đền miếu để tỏ lòng thành, ghi nhớ công lao với tổ tiên, phúc thần mà
chính họ quan niệm rằng, đã giúp đỡ, chở che cho cộng đồng người Hoa trong suốt
chặng hành trình đầy hiểm nguy và con đường lập nghiệp nơi vùng đất mới. Tín
ngưỡng thờ Ông/Quan Đế thánh quân / với nhiều tên gọi khác để chỉ về nhân vật
lịch sử thời Tam quốc: Quan Vân Trường (một con người được tôn thánh của lòng
trung nghĩa, tài đức vẹn tòan) được cụ thể hóa bằng các đền, chùa khá phổ biến
trên vùng Đồng Nai. Nói một cách khác, có thể xem sự tồn tại hoặc tàn tích của
những ngôi miếu / chùa thờ Quan Công là nhận diện được vùng này có cộng đồng
người Hoa sinh sống trong lịch sử 300 năm của xứ Đồng Nai - Gia Định. Ở Đồng
Nai, tồn tại nhiều ngôi chùa Ông mà điển hình là các địa điểm: Phước Thiền, Bến
Gỗ, Cù lao Phố, Bến Cá. Hiện nay, kiến trúc hiện tồn của chùa Ông chỉ còn ở
Phước Thiền, Bến Gỗ và Cù lao Phố. Chùa Ông ở Cù lao Phố là một công trình kiến
trúc nghệ thuật độc đáo, là cơ sở văn hóa tín ngưỡng được xây dựng sớm và có
quy mô lớn của người Hoa. Bên cạnh tín ngưỡng thờ Ông qua đền, chùa, cộng đồng
người Hoa còn thờ các vị nhân thần khác có gốc tích từ quê nhà. Di tích Phụng
Sơn tự ở Thành phố Biên Hòa là một điển hình của người Hoa bang Phúc Kiến. Họ
tôn thờ Quảng Trạch tôn vương - một con người xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ
nhưng có chí hướng ở vùng Phụng Sơn, Nam An. Sống giúp dân dẹp loạn, chết oai
linh hiển hách bảo vệ dân làng nên người Hoa Phúc Kiến suy tôn ông lên bực
thánh minh, gọi họ làm danh xưng Quách Thánh vương.
Đồng
thời với tín ngưỡng thờ Ông, cộng đồng người Hoa còn có tín ngưỡng thờ Bà - mà
nhân vật được tôn thờ là Bà Thiên Hậu. Hầu hết các di tích tín ngưỡng của người
Hoa ở Đồng Nai đều có miếu thờ Bà ở bên cạnh. Nguyên ủy bà Thiên Hậu là một
nhân vật tài năng nhưng chết trẻ và thường hiển linh cứu độ người dân đi biển
khi gặp bão dông, tai ương. Có lẽ, cảm ứng trước sự linh ứng, lòng trắc ẩn và
cũng có thể quan niệm chính bà Thiên Hậu đã độ trì giúp cho họ trong chuyến
vượt biển tìm đến nước Nam mà cộng đồng người Hoa ở vùng đất Đồng Nai đã không
quên lập miếu tôn thờ. Ở Đồng Nai miếu / chùa thờ bà Thiên Hậu khá phổ biến.
Nhưng có lẽ di tích tiêu biểu và quy mô phải kể đến Thiên hậu cổ miếu ở phường
Bửu Long, thành phố Biên Hòa. Nơi đây, vốn là một ngôi miếu nhỏ của những người
Hoa bang Hẹ làm nghề đá tạo dựng để thờ Tổ sư Ngũ Đăng. Sự linh ứng của bà
Thiên Hậu thu hút nhiều người tôn thờ nên người Hẹ đã rước Bà vào phối tự tại
di tích. Đây là một công trình kiến trúc khá độc đáo được phối hợp bởi nhiều
thành tố xây dựng nhưng chủ yếu vẫn là kiến trúc đá, được thể hiện tinh xảo bởi
các nghệ nhân của người Hoa bang Hẹ. Bên cạnh đó, một số di tích của người Hoa
trong quá trình giao lưu văn hóa Việt đã có tính chất Việt hóa như đình Tân
Lân, miếu Thiên Hậu, miếu Cây Quăn, miếu Bà Thánh trên địa bàn thành phố Biên
Hòa.
Cộng
đồng người Hoa trước đây sinh sống tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam, đến Đồng Nai
từ cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, thế kỷ XX đã xây dựng cho mình những cơ
sở tín ngưỡng chủ yếu là các miếu, thờ các vị thần chính như Quan Âm, Quan
Thánh, Án Thủ công công, những bài vị định danh nhiều vị thần. Trong các bài vị
có nêu Phục Ba tướng quân- nhân vật đã đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
trong lịch sử chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam. Yếu tố này cần xem xét một
cách thận trọng. Các cơ sở tín ngưỡng với đối tượng thờ Quan Âm của nhóm cộng
đồng người Hoa thường có quy mô kiến trúc lớn, tập trung ở những địa bàn mà
người Hoa cư trú đông đảo. Ngoài ra, các cơ sở tín ngưỡng thờ các vị thần khác
có quy mô vừa và nhỏ.
Với
hệ thống cơ sở tín ngưỡng phong phú, cộng đồng người Hoa bày tỏ lòng thành của
mình với thần, thánh, phật, tổ một cách trang nghiêm qua những nghi thức của lễ
hội. Họ kính trọng và tôn thờ và luôn cầu mong những điều tốt đẹp của thần
thánh ban cho cộng đồng, cho bản thân trong sự tồn tại của chu kỳ đời người. Đó
là những khát vọng đẹp đẽ và đáng trân trọng. Những nghi lễ được dung hợp của
nhiều quan niệm tín ngưỡng trong các lễ hội đã làm nên sự đa dạng của đời sống
tinh thần trong cộng đồng người Hoa.
Tùy
thuộc vào đối tượng thờ và phối thờ tại từng cơ sở tín ngưỡng mà ở đó tổ chức
những ngày lễ cúng. Các cơ sở thờ thần chung chung thì chọn các ngày trong
tháng (thường các ngày cúng được chọn rơi vào các ngày đầu tháng theo định kỳ.
Loại hình miếu rẫy, miếu thờ thần tại khu vực cộng đồng sinh sống thường có các
ngày cúng theo tiết, mùa trong năm như: xuân, hạ, thu, đông và lễ tạ ơn cuốn
năm. Các lễ cúng diễn ra trong thời gian ngắn, thường giới hạn trong một ngày.
Những cơ sở có đối tượng thờ được xác định thường chọn các ngày lễ trọng liên
quan đến đối tượng thờ như: ngày sanh, ngày đắc đạo, hiển thánh hoặc ngày mất.
Về
lễ hội có tính chất quy mô, điển hình ở một số cơ sở tín ngưỡng sau, thời gian
tính theo âm lịch:
- Thiên Hậu cổ miếu/ phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa theo lệ 3 năm 1 lần, tổ
chức lễ lớn vào các ngày 10 đến 13 tháng 6.
- Thiên Hậu tự, đình Tân Lân/ phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa với lễ Kỳ yên
và Địa nàng Bóng rỗi (tính chất Việt hóa).
- Nghĩa từ Phúc Kiến/ xã Hóa An; Nghĩa từ Phúc Kiến/ phường Bửu Long, thành phố
Biên Hòa với lễ chay đàn cầu siêu (đáo lệ 3 năm) vào trung tuần tháng 7.
- Miếu Quan Đế/ Thất phủ cổ miếu xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa vía Quan Công
hiển thánh ngày 24 tháng 6.
Các
miếu Quan Âm thường diễn ra lễ hội vào ngày 18,19 tháng 2/ vía sanh Quan Âm; có
tục đấu giá phúc pháo, đèn.
- Lễ Tả Tài Phán do các miếu Quan Âm tổ chức, kéo dài trong nhiều ngày, không ấn
định thời gian cụ thể (thường đáo lệ 5 hay 10 năm, khi miếu có điều kiện về tài
chánh).
Đặc
điểm chung là mục đích của lễ hội thường là những điều cầu an, cầu phúc, cầu
siêu. Ngoài ra, còn có những lễ hội như Tả Tài Phán có thêm tính chất thụ phong
cho lực lượng thầy cúng. Một số lễ hội như: Vía Quan Âm, vía Quan Đế, Tả Tài
Phán có những hoạt động tính chất hội đã cuốn hút nhiều người tham gia, tham dự
có tính xã hội cao như đấu giá đèn lồng. Điểm đáng trân trọng từ các nghi hội
nầy mà nguồn quỹ thu được đã có những đóng góp vào hoạt động phúc lợi xã hội
đem lại nhiều hiệu quả tích cực.
Bên
cạnh những yếu tố có tính ưu việt đó, cũng cần phải khẳng định rằng: một số lễ
hội có những tập tục gây lãng phí nhiều tiền của như tục đốt hàng mã, thời gian
kéo dài nhiều ngày. Một số cơ sở tín ngưỡng trong lễ hội còn duy trì, phục hồi
những hoạt động mê tín dị đoan như coi bói, xem quẻ. Trong một số lễ hội, đặc
biệt là lễ Tả Tài Phán thường có những Mạnh Thường quân là người nước ngoài nên
có yếu tố vi phạm về công tác quản lý hành chánh. Những yếu tố được nêu trên
cho thấy công tác tổ chức một số lễ hội đã vi phạm vào một số quy định trong
Quy chế về Lễ hội được Nhà nước ban hành (QĐ số 39/2002/BVHTT ngày 23 tháng 8
năm 2001). Nếu những yếu tố này sớm khắc phục thì lễ hội của cộng đồng người
Hoa ngày càng thể hiện nét văn minh, lành mạnh trong đời sống xã hội và thực
hiện đúng trong kỷ cương pháp luật nhà nước. Để thực hiện tốt những điều này,
trách nhiệm không chỉ của cộng đồng người Hoa trong công tác tổ chức lễ hội mà
còn là trách nhiệm của những cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, của chính
quyền địa phương các cấp.