Đồng Nai là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc cộng cư. Theo số liệu thống kê, tỉnh Đồng Nai có 40 dân tộc sinh sống. Tộc người Châu Ro, Châu Mạ là cư dân có mặt sớm trên vùng Đồng Nai. Theo các nguồn sử liệu, trước khi lưu dân Việt đến Đồng Nai khẩn hoang lập nghiệp vào thế kỷ XVI, thì người Châu Ro, Châu Mạ cùng các nhóm người Kơ Ho, STiêng đã từng cư trú và sinh sống. Chính vì vậy, người Châu Ro, Châu Mạ và những nhóm cư dân trên được xem là cư dân bản địa/ cư dân gốc, cư dân tại chỗ của vùng Đồng Nai. Tộc người Châu Ro, Châu Mạ thuộc nhóm loại hình nhân chủng Anhđônêdiêng, về mặt ngôn ngữ, thuộc ngữ hệ Môn - Khơ me, dòng Nam Á, chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình. 1. Tên gọi, dân số và địa bàn cư trú Người Châu Ro được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Một số tài liệu trước đây gọi người Châu Ro là Ro, Tô, Xôp (Coop), hay Dơ Ro…Người Châu Ro tự gọi mình là Chrau Jro với nghĩa: Chrau/ người, Jro/ tên bộ tộc. Về cá nhân, người Châu Ro có các họ thường gặp như Điểu, Thổ. Các họ như: Tòng, Lâm, Đào, Lý, Dương, Mai, Hồng được cho là vua Minh Mạng ban cho sau nay để làm họ. Người Châu Mạ có nhiều tộc danh để phân biệt từng nhóm người ở các vùng khác nhau như: Mạ Xộp, Mạ Tô, Mạ Blao, Mạ Dagui, Mạ ĐạĐơng, Mạ Ngăn, Mạ Klị, Mạ Krung ... Ở Đồng Nai, nhóm cộng đồng người Mạ tự nhận tộc danh của mình là: Mạ Krung, Mạ Klị ( Hiệp Nghĩa -Định Quán )/ tức là nhóm người Mạ sống ở vùng bình nguyên, phía dưới so với nơi cư trú chính, đông đảo của dân tộc Mạ vùng cao nguyên Lâm Đồng; Mạ RàLài ( Tà Lài - Tân Phu ) là người Mạ sinh sống vùng Rà Lài. Theo cách lý giải của người Mạ Rà Lài thì do đọc chệch và phiên âm từ Rà Lài mới có địa danh Tà Lài từ thời Pháp duy trì cho đến nay. Trong cộng đồng người Châu Mạ có cách đặt họ cho mỗi thành viên chủ yếu là K’ ( dành cho đàn ông ) và Ka ( dành cho phụ nữ ); ví dụ như ông K’Lêl, bà Ka Ròp… Một số nguồn tư liệu cho biết, trên vùng đất Biên Hòa xưa - Đồng Nai ngày nay nói riêng hay cả vùng Đông Nam Bộ nói chung, trước đây đã từng tồn tại một “vương quốc” hay “công quốc” của dân tộc Mạ. Nhiều thông tin từ thư tịch cho thấy, khi ghi chép về vùng Đồng Nai cách đây hàng thế kỷ, các tác giả đã đề cập đến nhóm cộng đồng các dân tộc ít người mà họ gọi là “Mọi”, “Man sách”. Chắc chắn rằng trong nhóm cộng đồng “Mọi”, “Man sách” được nhắc đến ở vùng Đồng Nai có nhóm cư dân Châu Ro, Châu Mạ (Phủ Biên tạp lục của Lê Quí Đôn; Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức; Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn-tập V). Nhiều công trình địa phương chí về vùng Biên Hòa, Long Khánh đầu thế kỷ XX còn liệt kê và chụp ảnh những vùng đất mà người dân tộc thiểu số cư trú, trong đó có đề cập nhóm người Châu Mạ ở vùng núi Chứa Chan (nay thuộc địa phận huyện Xuân Lộc), người Châu Ro vùng Gia Canh (thuộc huyện Định Quán)/ Monographic de la Bien Hoa 1901, 1924 và Cochinchine 1931. Từ năm 1971, nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc trong công trình đăng tải trên tập san Sử Địa Sài Gòn cho rằng: Khu vực Biên Hòa và miền Đông Nam Bộ là địa bàn cư trú của người Châu Mạ. Nhiều học giả đồng thuận với quan điểm này và còn cho biết thêm, ngay cả vùng Sài Gòn xưa cũng thuộc phạm vi không gian văn hóa xã hội của nhóm cư dân Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng (Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh - tập I). Về nguồn gốc lịch sử và sự phân bố cư dân bản điạ ở Đồng Nai, theo công bố của PGS, PTS Phan Xuân Biên công trình “300 năm hình thành và phát triển Đồng Nai” thì “Xứ Đồng Nai được thành lập cách đây 300 năm bao gồm cả vùng đất Đông Nam Bộ và một phần Nam Tây Nguyên. Nơi đây từ lâu đã là địa bàn cư trú của một bộ phận cư dân Môn - Khơme, mà theo sự xác minh thành phần dân tộc học, đó là các tộc người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng, Mơ Nông, Kơ Ho. Các cộng đồng dân tộc thiểu số này là hạt nhân cơ bản của vương quốc Mạ kéo dài từ vùng trung lưu đến hạ lưu sông Đồng Nai. Sau này, do áp lực của nhiều luồng di dân và do hoàn cảnh lịch sử xã hội vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, người Châu Mạ và các tộc người khác đã lùi dần về phía thượng lưu sông Đồng Nai và vùng miền núi Đông Nam Bộ. Địa bàn tập trung dân tộc Châu Mạ nhiều nhất là vùng Đồng Nai Thượng/ nay thuộc địa bàn của tỉnh Lâm Đồng. Một bộ phận của cư dân Châu Mạ, Châu Ro trong quá trình luân chuyển di cư đã chọn những vùng đất ở Đồng Nai sinh sống. Cụ thể là vùng đồi núi, ven sông Đồng Nai thuộc địa phận của huyện Định Quán và Tân Phú ngày nay”. Từ các nguồn thư tịch và các công trình nghiên cứu cho thấy: Vùng đất Đồng Nai là địa bàn cư trú của cư dân Châu Mạ, Châu Ro cùng với các nhóm cộng đồng thiểu số khác: Stiêng, Kơ Ho từ lâu đời. Do những biến động của lịch sử mà những vùng cư trú của họ bị thay đổi và hiện tại tập trung khá đông ở các huyện Định Quán, Tân Phú. Hiện nay trên địa bàn Đồng Nai, theo thống kê dân số ngày 1/ 4/ 1999 thì số dân Châu Ro có khoảng13.000 người (đứng hàng thứ 5/ 40 dân tộc sinh sống ở Đồng Nai ); sống tập trung chủ yếu tại ấp Lý Lịch, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu; xã Túc Trưng huyện Định Qúan; xã Xuân Vinh, xã Xuân Bình huyện Long Khánh; xã Xuân Trường, xã Xuân Phú, xã Xuân Thọ… huyện Xuân Lộc. Một số hộ dân Châu Ro sống rải rác ở huyện Long Thành, huyện Thống Nhất. Người Mạ có khoảng trên 2.000 người ( đứng hàng thứ 9/ 40 dân tộc ). Phần lớn người Mạ tập trung ở hai huyện Tân Phú, Định Quán, có mặt trên 16 xã. Họ sống tập trung đông đảo ở các xã Tà Lài (433 người), Phú Tân ( 156 người ), Phú Bình ( 85 người ) thuộc Tân Phú và ấp Hiệp Nghĩa ( 722 người ) thuộc thị trấn Định Quán. Hai địa bàn Tà Lài, Hiệp Nghĩa có số nhân khẩu đông đảo nhất và tập trung, thể hiện tính cộng đồng khá rõ nét so với các địa bàn khác. 2. Cấu trúc xã hội, gia đình Trước đây, người Châu Ro, Châu Mạ cư trú thành từng làng (bon / palây ) với một khu vực đất đai riêng biệt. Làng là một công xã thị tộc, mọi người trong làng đều có quan hệ huyết thống. Thậm chí làng còn là một công xã gia đình ( cả làng là một nhà ) hoặc là một làng đại tông tộc ( một làng có nhiều nhóm tông tộc ). Mỗi làng thường có từ một hay nhiều nhà sàn dài mà trong đó cư trú nhiều thành viên, thế hệ của một dòng họ. Xưa kia, người Châu Ro, Mạ theo chế độ mẫu hệ, vai trò người phụ nữ được đánh giá cao trong cộng đồng. Trong cộng đồng, uy thế của vị tộc trưởng được đánh giá cao; trên đó là ban hội của các tộc trưởng có vị già làng chỉ huy. Ngay từ thời thực dân Pháp xâm chiếm, hội đồng già làng của buôn làng người Châu Ro, Châu Mạ không còn duy trì mà thay vào đó là hệ thống chính quyền do nhà nước thực dân lập ra. Những làng người Mạ thường được ghép vào đơn vị tổng, ở đó thực dân Pháp chọn ra một người trong cộng đồng Mạ làm Cai tổng. Đến thời kỳ của chính quyền Sài Gòn, buôn làng người Châu Ro, Châu Mạ thực hiện theo qui định của chính quyền đương thời. Đặc biệt, số người Châu Ro, Châu Mạ bị dồn ép vào ấp chiến lược, sống tập trung. Một số người Châu Ro, Châu Mạ khác thì sống rải rác trong vùng rừng núi, vùng căn cứ kháng chiến cách mạng. Sau ngày đất nước thống nhất, người Châu Ro, Châu Mạ được Nhà nước ta khuyến khích tập trung sống trong các khu định canh, định cư. Cấu trúc gia đình của người Châu Ro, Châu Mạ so với trước đã có nhiều thay đổi. Từng hộ gia đình nhỏ được xác lập, vai trò của người đàn ông được coi trọng trong gia đình. Về mặt xã hội, người Châu Ro, Châu Mạ sống theo khuôn khổ và tuân thủ hệ thống chính quyền của Nhà nước ta quy định. Trong đó, cũng như các cộng đồng dân tộc khác đều bình đẳng theo hiến pháp, pháp luật của nhà nước. Xã hội người Châu Ro, Châu Mạ qua các giai đoạn lịch sử chưa phân hóa giai cấp rõ rệt. Cấu trúc xã hội và gia đình của người Châu Ro, Châu Mạ có nhiều thay đổi. Trong sinh hoạt gia đình, tàn dư chế độ mẫu hệ, cư trú bên vợ còn khá phổ biến. Thời kỳ nửa sau của thế kỷ XX với sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố, chế độ đại gia đình tan rã, hình thành nên những tiểu gia đình vốn xuất thân là những gia đình hạt nhân, gia đình tế bào trong cấu trúc gia đình trước đây. Cùng với sự phát triển đó, trong sinh hoạt gia đình đã xuất hiện chế độ phụ hệ. Hiện nay, gia đình người Châu Ro, Châu Mạ là tế bào độc lập, được cấu kết bởi những thành viên chính chồng vợ và con cái. Con cái trong gia đình khi thành lập gia đình thường tách ra lập hộ gia đình mới. Vì vậy, khác với trước đây, trong hộ gia đình người Châu Ro, Châu Mạ không còn tập trung nhiều thế hệ. Đời sống xã hội của người Châu Ro, Châu Mạ tiếp xúc và tiếp biến với văn hóa của các cộng đồng dân tộc khác, chủ yếu là người Việt, có nhiều tác động tích cực đến với cộng đồng họ về nhiều mặt. 3. Đời sống kinh tế Trước đây, kinh tế nương rẫy đóng vai trò chủ đạo trong đời sống của người Châu Ro, Châu Mạ. Sống trong môi trường địa lý vùng rừng núi, sản xuất nông nghiệp Châu Ro, Châu Mạ mang tính chất tự cung tự cấp và hoàn toàn dựa vào thiên nhiên. Rẫy của người Châu Ro, Châu Mạ là rẫy đa canh. Ngoài lúa còn trồng nhiều loại cây khác như bầu, bắp, bí, thuốc lá, bông vải. Năng suất của rẫy tùy thuộc vào loại đất và thời tiết hơn là loại giống. Do kinh nghiệm còn thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu nên thu hoạch mùa màng của họ không cao. Ngoài việc làm nương rẫy, trồng lúa nước, người Châu Ro, Châu Mạ còn khai thác tài nguyên rừng như săn bắt, hái lượm để tăng thêm mức sống cho gia đình. Trước đây, rừng còn nhiều và những chính sách về bảo vệ rừng chưa chặt chẽ, việc khai thác tài sản của rừng của người Châu Ro, Châu Mạ rất thuận tiện, đóng góp tích cực trong đời sống của họ. Ngày nay, nghề đi rừng của người Châu Ro, Châu Mạ còn duy trì nhưng hạn chế. Người Châu Ro, Châu Mạ cũng đã biết đến chăn nuôi gia súc, gia cầm nhưng cũng không phát triển mạnh. Nghề thủ công như: rèn, đan lát, dệt phát triển trong cộng đồng người Châu Ro, Châu Mạ còn duy trì nhưng cũng vì nhiều lý do mà ngày nay không còn nhiều như trước đây. Chỉ có nghề dệt thổ cẩm là còn duy trì và đã trở thành một nguồn thu nhập đáng kể với người Châu Mạ ở vùng Hiệp Nghĩa/ Định Qúan và Tà Lài/ Tân Phú. Ở vùng Tà Lài, Hiệp Nghĩa, trước đây, bất kỳ nhà người Châu Mạ nào cũng có dệt thổ cẩm. Họ trồng bông, làm thuốc nhuộm, cán bông, kéo sợi... nói chung, từ khâu nguyên liệu cho đến hoàn thành sản phẩm thổ cẩm là một chu trình khép kín mà họ hoàn toàn tự túc. Người Châu Mạ tạo nên những sản phẩm thổ cẩm rất đẹp với những cách trang trí hoa văn tinh tế, sắc sảo tùy thuộc vào từng loại với mục đích sử dụng. Giờ đây, những công cụ như cán bông, quay tơ, kéo sợi họ không còn dùng đến. Để dệt thổ cẩm, người Châu Mạ chỉ cần mua sợi thương phẩm và dệt thủ công. Thổ cẩm của người Châu Mạ ở vùng Tà Lài, Hiệp Nghĩa cung cấp cho các vùng khác không chỉ ở trong địa bàn Đồng Nai mà còn vươn đến các tỉnh khác, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cộng đồng Mạ mà các cộng đồng dân tộc khác như Châu Ro, Kơho, Stiêng. Thế nhưng, nghề dệt thổ cẩm này đang phát triển tự phát, không có tính chất bền vững. Trong chương trình phát triển kinh tế cộng đồng, nhà nước và các tổ chức đã đầu tư phát triển nhưng không có kế hoạch lâu dài. Ngày nay, dưới chính sách dân tộc của nhà nước, dân tộc Châu Ro, Châu Mạ cũng như các nhóm cộng đồng dân tộc thiểu số được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi bằng nhiều hình thức để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Nhiều hộ dân tộc Châu Ro, Châu Mạ được vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo một cách thiết thực. Con em người Châu Ro, Châu Mạ được đến trường, học hành, văn hóa được đầu tư... Thế nhưng, có nhiều nguyên do mà đời sống kinh tế của họ vẫn còn nhiều khó khăn. Chỉ một số ít trong số đông của người Châu Ro, Châu Mạ thoát khỏi cảnh đói nghèo. Đời sống kinh tế, xã hội của cư dân Châu Ro, Châu Mạ để vượt qua ngưỡng cửa của đói nghèo, nâng cao dân trí , ngoài chính sách hỗ trợ, đầu tư ưu tiên của nhà nước, đòi hỏi một sự nỗ lực không ngừng của chính cộng đồng họ. 4. Phong tục tập quán Trong hoàn cảnh điều kiện sống hiện nay, một số tập quán của người Châu Ro, Châu Mạ không còn được duy trì. Thế nhưng, nó cũng còn những ảnh hưởng khá rõ nét trong đời sống của cộng đồng cư dân Châu Ro, Châu Mạ. Trước đây, người Châu Ro, Châu Mạ ở nhà sàn. Trong nhà sàn là sự quần trú của đại gia đình nhiều thế hệ. Sự phân chia chỗ ỡ cho thành viên được quyết định bởi người chủ gia đình, thường theo thứ tự của đầu nhà phía đông hay phía đầu tiên cho người lớn tuổi. Nhà bếp thường được phía trái cửa ra vào của nhà sàn. Khi bước vào nhà là gian nhà bếp, phòng chung ( tụ họp gia đình và đón khách ), kế đến là các gian buồng của các thành viên được chia ngăn. Tập quán này ngày nay có nhiều thay đổi. Trang phục cổ truyền qua một số hình ảnh chụp hồi đầu thế kỷ XX cho thấy người đàn ông Châu Ro, Châu Mạ đóng khố, người phụ nữ mặc váy, phần bụng trở lên để trần. Để giữ thân vào mùa lạnh, người Châu Ro, Châu Mạ thường khoác lên một tấm chăn có lỗ chui đầu. Hiện nay, chỉ có cộng đồng Châu Mạ dệt thổ cẩm có các loại váy, áo chui đầu có tay, dây quấn đầu hay buộc ngang bụng với kiểu dáng hiện đại. Những loại trang phục này có ảnh hưởng yếu tố bên ngoài, chỉ sử dụng trong các dịp lễ hội hay trong các đợt biểu diễn văn nghệ. Một bộ phận người Châu Ro trên địa bàn Đồng Nai không có trang phục cổ truyền, họ sử dụng thổ cẩm người Châu Mạ. Một số khác sử dụng những sản phẩm thổ cẩm được bán trên thị trường không rõ xuất xứ hay có sự pha trộn nhiều yếu tố không thuần nhất. Điều này đã làm cho nhiều nhà nghiên cứu mới xâm nhập, điều tra dân tộc học dễ bị nhầm lẫn về trang phục cổ truyền của người Châu Ro, Châu Mạ. Hiện nay đại đa số người Châu Ro, Châu Mạ sử dụng loại quần áo với các loại vải giống như người Việt. Đồ trang sức cổ truyền của người của người Châu Ro, Châu Mạ chủ yếu là dây đeo cổ được kết nối bằng những hột chuỗi nhiều màu sắc; lục lạc, vòng đồng đeo chân, đeo cổ và ngà voi đeo tai (người Châu Mạ ). Những loại trang sức này hiện vẫn còn lưu giữ trong cộng đồng nhưng chỉ có các sợi dây và lục lạc là còn phổ biến. Trong chu kỳ đời người, có những phong tục gắn liền với bản thân hay cộng đồng cư dân Mạ với những thời điểm: sinh đẻ, cưới hỏi, tang ma. Phụ nữ Châu Ro, Châu Mạ khi sinh đẻ có lắm điều kiêng cữ. Trước đây, người Châu Ro cất hẳn một cái chòi cho người phụ nữ đến kỳ sinh nở. Những cây cột được chọn làm chòi phải suông, thẳng, không có dây đeo bám. Cửa vào chòi hướng về phía không có cây cối, gò ụ che chắn. Người Châu Mạ chọn một góc trong nhà dọn dẹp, ngăn vách cho người phụ nữ sống trong thời gian sinh con. Mọi thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ săn sóc cho người phụ nữ và đứa bé được sinh ra đời. Thời gian ở cữ thường kéo dài từ 7 đến 9 ngày. Trong trường hợp bà mẹ sinh khó, con cái bịnh tật, người nhà thường hái lá cây rừng/ một trong những vị thuốc cổ truyền được cộng đồng dùng từ bao đời, làm thuốc để hỗ trợ, dưỡng bệnh. Cũng có trường hợp cúng bái, thường là do các bà mụ ở buôn làng đảm trách. Sau thời gian ở cữ, người mẹ và đứa trẻ mới được bước đến gian nhà chính. Đứa trẻ khi được sinh ra, vài ngày sau thường được bà mẹ đem ra suối gần nhà tắm rửa với ý niệm: Bệnh tật sẽ trôi theo sông nước, đứa trẻ khỏe mạnh. Trong tuần lễ đầu sau khi sanh, bà mụ dùng miếng tre nứa mỏng cắt rốn cho đứa trẻ. Khi đứa trẻ bị bệnh, người mẹ bồng con với khúc cây mang theo đến một cái giếng gần nhà nhất, đọc lời khấn cho bệnh tật, ốm yếu của đứa con nhập vào khúc cây thế mạng cho con mình. Rồi quăn khúc cây xuống giếng với lòng tin đứa trẻ lành bịnh. Khi trong nhà có phụ nữ sinh đẻ, người Châu Ro, Châu Mạ để những dấu hiệu cho nhiều người biết như cành cây tươi cắm trước cửa để không có ai quấy rầy cũng như đến trong thời gian ở cữ. Họ rất kiêng kỵ người lạ vào nhà trong thời gian này vì sợ ma quỷ theo khách vào nhà quấy nhiễu đứa trẻ vốn còn non nớt. Khi đặt tên đứa trẻ, người nhà tổ chức lễ cúng tạ bà mụ và lựa tên, sau đó cúng các thần linh, tổ tiên khẩn cầu sự phù hộ, độ mạng cho đưá trẻ mau lớn. Về hôn nhân, thanh niên Châu Ro, Châu Mạ lớn lên được tự do tìm hiểu, bày tỏ tình cảm qua những lần gặp gỡ, tiếp xúc. Trước đây, khi chọn dâu, rễ, các bậc cha mẹ thường đánh giá vào năng lực làm việc, sức khỏe, và đức hạnh. Muốn chọn rễ, họ xem công cụ của người con trai như chà gạc, gùi, dao ... có bền, chặt bén hay không. Chọn dâu họ xem nhà bếp có ngăn nắp hay cẩu thả, dơ dáy và chú ý xem cô gái có bị cộng đồng lên tiếng dèm pha hay không?. Khi đôi trai gái ưng thuận nhau, chàng trai thưa chuyện với cha mẹ, nếu được chấp thuận thì nhà trai nhờ một người trong họ hàng gần, đứng tuổi làm mai đi dạm hỏi. Khi đến nhà gái, chàng trai mặc chiếc khố tua đỏ, tay đeo nhiều vòng đồng, tóc cài lược sừng trâu, búi tóc cắm hai lông chim trắng dài. Đến trước nhà gái, chàng trai cắm mũi lao xuống đất, vai vẫn vác chà gạc, lưng đeo dao. Khi họ hàng nhà gái ra đón, chàng trai trình bày mục đích nếu được thuận tình chàng trai rút dao bước vào nhà, đến khấn trước các bàn thờ Yang và dắt dao lên mái nhà để đó 7 ngày. Hai gia đình vui mừng tiệc tùng, uống rượu cần vui vẻ. Sau đó, nhà trai đi về, chàng trai ở lại nhà gái tham gia làm lụng ở đây như một thành viên trong gia đình. Tuy chàng trai ở lại nhà gái và được đồng ý nhưng họ không được ngủ chung trong nhà mà phải làm một túp lều ở một khu vườn để sống với nhau. Cô gái trang sức rất đẹp bằng cách đeo nhiều chuỗi vòng, chuỗi hạt cườm hoặc vỏ ốc đẹp, tóc có lược gài và dao cán sừng. Váy mặc được trang trí hoa văn tinh tế, có nhiều tua đỏ rất đẹp. Hầu hết, mỗi thiếu nữ Châu Ro, Châu Mạ chọn hay tự dệt cho mình một chiếc váy thật đẹp chính tay mình thể hiện để mặc trong những ngày trọng đại. Lễ vật chàng trai đem đến nhà gái: một cái ché, một con gà đã làm thịt, các đồ trang sức như vòng, lược, chuỗi hạt cườm... và các thứ do nhà gái yêu cầu từ trước. Khi tổ chức lễ cưới, chàng trai còn đem đến nhà cô gái nhiều thứ khác như: tiền, gạo, rượu cần, bộ cồng, trâu hoặc heo... Đám cưới tiến hành bên nhà gái. Thầy cúng trong làng được mời tới tổ chức cúng lễ cho tổ tiên, thần linh và cầu cho đôi vợ chồng trẻ. Người ta mổ trâu, làm heo đãi làng, ca hát nhảy múa, vui chơi. Thường lễ cưới diễn ra vui vẻ, kéo dài tùy theo kinh tế hai bên gia đình. Đôi vợ chồng trẻ trao vòng tay, cổ, chân cho nhau và cùng ăn gan heo thể hiện lời thề sống với nhau hạnh phúc. Chàng trai phải ở lại nhà vợ. Hình thức này phản ánh tục bắt chồng trước đây và tàn tích của chế độ mẫu hệ. Ở nhà vợ một thời gian khoảng vài năm, nếu người đàn ông muốn đưa vợ ở riêng hoặc về bên nhà mình thì nộp một số lễ vật cho gia đình vợ theo yêu cầu. Ngày nay, trai gái Châu Ro, Châu Mạ cũng được tự do tìm hiểu, nhưng những nghi thức trong lễ cưới cổ truyền không còn được duy trì. Phần lớn, người Châu Ro, Châu Mạ tổ chức đám cưới theo những nếp đời sống hiện tại của người Việt và một số theo nghi thức tôn giáo mà những gia đình đang theo. Nhưng một số hình thức cổ truyền vẫn duy trì như mang cồng chiêng theo trong ngày cưới, trình bày cho dòng họ, tổ tiên... Chế độ hôn nhân một vợ một chồng được xác lập bền vững trong cư dân Châu Ro, Châu Mạ. Người Châu Ro không lấy vợ cùng họ tộc nhưng hình thức hôn nhân con cô con cậu được phép. Người Châu Mạ trong trường hợp con cô con cậu ba đời thi mới được lấy nhau nhưng phải được hai bên cha mẹ đồng thuận. Trước đây, trong xã hội cổ truyền, còn bảo lưu tục “nối dây”, tức người chồng hoặc vợ vì nguyên nhân nào chết trước thì trong gia đình các thành viên được kết nối sống chung thay thế nhưng nay hoàn toàn xóa bỏ. Ngoại tình là một hình thức vi phạm bị xem là phạm luật tục bị phạt nặng do dòng họ, gia đình hay làng phân xử. Thường số lễ vật bị phạt rất nặng nhằm đề cao sự chung thủy cho các đôi vợ chồng. Hình thức ly dị cũng ít khi xảy ra trong cộng đồng người Châu Ro, Châu Mạ. Nếu có xảy ra thì người chủ động trong ly hôn phải nộp lễ vật cho vợ (hoặc chồng) theo sự đòi hỏi của phía bên kia. Người Châu Mạ còn có tục bỏ mã, tức vợ hoặc chồng chết. Sau ba năm mới được tái giá. Nếu người nào vi phạm trong trường hợp trên sẽ bị phạt gấp đôi lễ thách cưới trước đây. Về tang ma, khi nhà người Châu Ro, Châu Mạ có người thân chết thì gia quyến khóc than, nổi trống chiêng bằng âm thanh bằng âm điệu dành cho ma chay mà dân làng đến viếng, chia sẻ. Những người đàn vào rừng, lễ cúng tìm cây gỗ tốt để đóng hòm. Nếu gia cảnh người chết không có đủ điều kiện thì họ bó xác bằng chăn, chiếu và nẹp tre. Xưa kia, người Châu Mạ thường đóng chiếc hòm dài khoảng 2m, là thân của một cây gỗ được bổ đôi, khoét lõm 2 phần ở giữa để đặt thi hài. Hình dáng bên ngoài được cấu tạo khá độc đáo, nó vừa mang hình khối của một ngôi nhà dài, lại vừa thể hiện bóng dáng của một con trâu được cách điệu hóa. Đầu quan tài cao, to và thấp nhỏ dần về phía cuối. Phía đầu hai bên sóng ván thiên được gắn một đôi sừng bằng gỗ, phía đuôi gắn một cái đuôi vót bằng tre. Người chết được gia quyến mặc cho bộ đồ quí nhất. Thi hài được nằm ngửa, đầu gối trên một cái bát để úp, hai tay để chắp trên ngực, chân duỗi thẳng. Hai bàn tay, hai bàn chân được buộc một đoạn dây rừng. Thi hài được quàn trong nhà một khoảng thời gian từ ba đên năm ngày để người thân tỏ lòng tiếc thương. Nhà người Châu Mạ có người chết, người ta làm thịt gà để cúng tiễn đưa. Họ cúng gà sống rồi làm thịt, lấy máu bôi chân giường, đầu giường, trán, đầu và các ngón chân người chết. Họ quan niệm, con gà sẽ dẫn hồn người chết đi. Những người thân cắt một phần tóc của mình bỏ vào hòm người chết như tỏ ý để qua bên kia có cái để mà lợp nhà ở. Người Châu Ro, Châu Mạ quan niệm người chết là từ giã cuộc sống trần gian để qua một thế giới mới khác vì vậy, để họ yên ổn sống ở nơi mới, người còn sống không quên sắm những đồ vật để gửi, chôn theo. Tang chủ thường chia cho người chết một số tài sản trong nhà: công cụ lao động như chà gạc, rìu, gùi; đồ dùng như nồi gốm, bát sành, vỏ trái bầu khô, ché; vũ khí như dao, nỏ, cung, tên, ná... cùng một số đồ trang sức, vật dụng khác. Số tài sản này, một số bỏ chung với thi hài người chết và một số đặt xung quanh mộ hay bỏ rãi dọc đường gần khu nghĩa địa. Phần lớn những thứ bỏ trên mặt đất thường bị phá hủy một phần để phân định sự đối lập với tài sản của người đang sống, đồng thời ngăn ngừa kẻ xấu lấy về sử dụng. Nếu nhà có của thì tế người chết bằng trâu rồi dựng một chuồng trâu nhỏ để đựng xương con vật đã hiến sinh. Người Châu Mạ còn có tục tẩy rửa nhà sau khi đưa tang. Họ nấu nước sôi có hòa lẫn tiết gà lấy lá cây nhúng vào vẫy lên những người thân, đưa đám để hồn ma người chết không ám ảnh. Người Châu Ro, Châu Mạ còn có quan niệm về chết lành và chết dữ. Chết lành như bị bệnh tật, già yếu, chết dữ là bị tai nạn, bị thú dữ ăn thịt, chết bất ngờ... Theo đó mà họ có những nghi thức kiêng kỵ, tổ chức tang ma cho phù hợp. Chết lành là tổ chức tang ma trong nhà, chôn ở nghĩa địa của buôn làng. Chết dữ là điềm xấu, mang lại rủi ro nên gia đình, buôn làng tổ chức đơn giản và chôn ở nơi họ bị nạn hoặc nơi khác ngoài nghĩa địa cộng đồng. Người Châu Ro, Châu Mạ có tục mở cửa mã ngày thứ bảy với lễ vật cúng gồm có: bánh giã của gia đình làm, gà vịt, chén cơm. Đó là lần cuối họ thăm lại nơi ở của người chết. Trong thời gian chôn đến lúc mở cửa mã, gia đình có người chết thường ở nhà và không đi đến bất cứ nhà nào, và công việc nương rẫy cũng tạm ngưng lại. Mỗi buôn làng Mạ đều có một khu đất được chọn làm nghĩa địa riêng. Họ xem đây là vùng đất rất linh thiêng, nếu không có việc gì quan trọng thì ít ai đến. Mộ phần người chết người Mạ đắp rất thấp và ít được chăm sóc nên khó phân biệt. Cách nhìn nhận ngôi mộ thường chú ý đến phần chum hoặc ché để ở phía dưới của mồ. Trong cuộc sống, người Châu Ro, Châu Mạ có lắm điều kiêng kỵ, đặc biệt là trước những công việc quan trọng như làm nhà, chọn rẫy, khi làm nhà…Người Mạ còn một số kiêng cữ như: không đi gần các tảng đá lớn, vì cho rằng ma quỷ ngự trong các tảng đá sẽ ám vào người. Nhà có người bệnh, họ treo trước nhà cành lá tươi không cho khách vào vì sợ mang thêm bóng vía của bệnh tật. Những con vật như kỳ đà, rắn vào nhà thì rất sợ vì báo trước sự rủi ro. Họ kiêng ăn thịt cọp, thịt chó vì suy nghĩ cọp thì ăn thịt người, chó thì ăn cơm như người. Những kiêng cữ này ngày nay hầu như người Mạ không còn giữ nữa nhưng trong đời sống tinh thần, tàn dư của nó vẫn còn chi phối ít nhiều đến cách suy nghĩ của họ. Những tập tục, nghi lễ của dân tộc Châu Ro, Châu Mạ ở Đồng Nai ngày càng được cải biến dần trong quan hệ giao lưu tiếp biến với cộng đồng dân tộc anh em; đặc biệt sự ảnh hưởng của văn hóa người Việt và nghi lễ của các tôn giáo. Những hủ tục lạc hậu bị loại bỏ dần để tiếp thu cái mới. Vì vậy, một số những tập quán được nêu trên chỉ còn lưu lại trong ký ức. Ngoài ra, họ còn có nhiều tập quán, kiêng kỵ khác. Nó thể hiện phản ánh sự nhận thức của họ đối với cuộc sống. Trên một bình diện, những yếu tố, những phong tục, tập quán này vẫn còn tác động, ảnh hưởng nhất định đến đời sống sinh hoạt xã hội của cộng đồng cư dân Mạ cho đến ngày nay. 5. Tín ngưỡng - Lễ hội Tín ngưỡng nguyên thủy của dân tộc Châu Ro, Châu Mạ là thờ đa thần với quan niệm mọi vật đều có linh hồn. Vì vậy, họ thần rất nhiều thần, các hiện tượng thiên nhiên thường xảy ra mà chính cộng đồng, bản thân họ không lý giải được. Đây cũng chính là quan niệm, tín ngưỡng chung của các cộng đồng cư dân bản địa ở Đồng Nai. Người Châu Ro, Châu Mạ tin vào một thế giới siêu hình tồn tại song song với thế giới thực tại mà họ đang sống. Thế giới siêu hình đó là nơi tồn tại, ngự trị của các thần linh ( đại diện cho cái thiện ) và có cả ma quỷ ( đại diện cho cái ác), có khả năng chi phối đến đời sống con người. Hệ thống thần linh người Châu Mạ thờ rất đa dạng. Nhưng có một vị thần mà họ xem là tối thượng trên tất cả các thần linh khác là Yang N'du (Thần N'du). Vị thần vô hình này có tài năng siêu phàm đóng vai trò quan trọng nhất trong tất cả các thần linh. Vì vậy, bất kỳ lễ cúng nào, để tôn trọng và biết ơn, người Châu Mạ đọc lời khấn Thần N'du trước và mời về dự chứng giám. Cư dân Châu Mạ tin rằng chính Thần N'du đã tạo nên cả thế giới rộng lớn. Tổ tiên người Châu Mạ do Thần N'du dựng nên, giúp đỡ và duy trì nòi giống cho đến ngày nay. Nhờ Thần N'du mà tổ tiên người Châu Mạ biết làm rẫy, săn thú, dệt vải, đặt ra các lề thói mà họ truyền giữ từ bao thế hệ đi qua đến nay. Dưới Thần N'du là hàng loạt các vị thần khác như: Thần Lúa (Yang Kôi), thần Rừng (Yang Bri), thần Nước (Yang Dah), thần Núi (Yang Bơnơm), thần Nhà (Yang Hiu), thần Đá (Yang Luh)... Một số sử liệu khác cho thấy người Châu Mạ còn thờ thần Lửa nhưng qua khảo sát tại Đồng Nai, cư dân Châu Mạ ở đây không thờ từ xưa đến giờ. Họ quan niệm, lửa để dùng, không là đối tượng được thờ. Bao trùm lên hệ thống thần linh được thờ trong tín ngưỡng người Mạ là các vị thần có liên quan đến nông nghiệp. Các vị thần này được tổ chức lễ cúng mỗi khi người Châu Mạ tiến hành công việc khai nương, phát rẫy, trồng trọt hay sau vụ mùa thu hoạch trong chu kỳ sản xuất. Xuất phát từ quan niệm các thần linh có mặt khắp nơi, chi phối đến đời sống con người nên người Châu Mạ tổ chức lễ cúng rất nhiều. Khi đau ốm, bệnh tật, đi rừng, ma chay... người Châu Mạ tổ chức cúng các vị thần liên quan cụ thể. Chẳng hạn, khi đi săn thì cúng thần Rừng ( Yang Bri ) cầu cho việc bắt được nhiều thú rừng, không bị thú dữ làm hại; khi làm nhà cúng thần Nhà ( Yang Hiu ) mong nhà cửa yên ổn, phù hộ không bệnh tật, nợ nần... Lễ vật cúng trong các buổi lễ đơn giản và tùy thuộc điều kiện của mỗi gia đình. Thường các lễ vật người hay dùng: Thịt gà, rượu, gạo, đèn sáp (lấy từ tổ ong). Khi gia chủ cúng thì đọc lời khấn ( hoặc thầy cúng ) đến các vị thần linh cụ thể để kêu cầu phụ trợ, giúp đỡ. Trong năm, người Châu Mạ có nhiều lễ cúng. Quan trọng nhất là lễ cúng thần Núi (Yang Bơnơm) và thần Lúa (Yang Kòi) với sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Lễ cúng Thần núi thường được tổ chức cúng vào cuối năm. Một ngọn núi được xem là linh thiêng là nơi thần linh ngự trị sẽ được chọn để làm lễ. Mọi nhà trong làng góp các lễ vật và người có uy tín trong cộng đồng cử hành lễ. Họ trình các lễ vật, đọc lời khấn, tạ ơn thần rừng đã giúp đỡ thời gian qua và mong được gia thêm sự phù hộ cho thời gian tới, cầu xin phúc đến họa trừ cho buôn làng khi đi rừng săn bắt... Tại ấp Hiệp Nghĩa, Định Quán, trước đây người Châu Mạ thường tổ chức cúng Thần rừng dưới chân núi Dang Kear - một ngọn núi có nhiều cây nứa. Lễ cúng Thần Lúa là lễ lớn nhất trong năm. Thời gian cúng thường được tổ chức vào tháng hai đến tháng ba âm lịch, khi mà người Châu Mạ đã thu hoạch xong mùa màng. Trước đây, lễ cúng thường được hành lễ trước khoảng sân của nhà dài cộng đồng. Để tổ chức lễ cúng, đàn ông Châu Mạ vào rừng chặt cây tre cao, thẳng và một số cây gỗ khác về để hành lễ. Họ dựng khoảng ba cây nêu trước khoảng sân theo hình tam giác. Cây nêu lớn dùng để cột trâu, cây nêu vừa cột bò, cây nêu nhỏ cột dê hoặc heo. Lễ hội này còn gọi là lễ Ăn trâu, vì có tục đâm trâu để thực hiện nghi thức đầu tiên của buổi cúng và chia thịt trâu cho công đồng cùng ăn . Trước đây, lễ thường kéo dài nhiều ngày, nhiều đêm nhưng ngày nay rất ít được tổ chức. Trên các cây nêu, người Châu Mạ chia làm nhiều bậc để trang trí. Theo họ quan niệm, cây nêu phần trên hướng thẳng lên trời tượng trưng cho thần linh, phía giữa là tổ tiên và dưới gốc là của con người trong thực tại. Trên các cây nêu, họ tạo những bông tre xoắn thành chùm tượng trưng cho bông lúa lớn cầu mong cho mùa màng tốt tươi, lúa nhiều hạt. Hai màu xanh đỏ được dùng chủ yếu trong cách trang trí mà theo họ màu đỏ là huyết con vật được hiến sinh để báo cho thần linh biết cộng đồng họ luôn cúng tế, màu xanh cầu mong cho mùa màng xanh tươi. Từ những cây nêu được buộc thêm những dây sợi dài tỏa xuống cùa tua hình cây chĩa ba cạnh và buộc ngang bởi thanh tre vót khắc họa hình sừng trâu hoặc sừng dê. Trên các dây được lồng vào các ông sáo trúc, vừa thể hiện bông lúa vừa tạo âm thanh khi sáo thổi. Dưới gốc cây nêu thường để những ché rượu cần mà mỗi nhà người Châu Mạ làm đem đến. Lễ đâm trâu thường được tiến hành vào buổi xế chiều. Cộng đồng người Châu Mạ khi tổ chức thường mời các buôn làng khác đến dự. Nghi thức tiếp đón bằng cách già làng đem rượu trong ống tre ( Cây tre được trang trí sắc sỡ, gắn thêm nhiều hình vẽ về lồng chim, đầu trâu, cùng uống rượu và cúng ) ra ngoài cổng mời khách. Đoàn khách vừa đi đến vừa đánh cồng chiêng. Khi mời rượu xong tất cả các thành viên khách buôn làng khác, tất cả vào khoảng sân nhà dài. Già làng đọc lời cúng trong bàn thờ ở nhà dài và làm nghi thức phun nước vào các con dao, chà gạc để đâm trâu. Những người có uy tín trong cộng đồng, khoảng ba người được chọn để đâm trâu. Trong khi đoàn người đi xung quanh các cây nêu hát múa thì những người đâm trâu lựa thế dồn trâu vào để đâm cho trâu nhanh chết. Khi đâm trâu, bò và heo ( hoặc dê ) xong họ xẻ thịt ngay và nướng trên đống lửa được đốt sẵn, rồi chia cho cộng đồng tham gia ăn, uống rượu cần. Trong buổi lễ, các thanh niên nam nữ Mạ vui múa, nhảy hát, các người già thì tập trung uống rượu cần và hát kể cho nhau nghe về cộng đồng của mình. Cồng chiêng được đánh cho tới thâu đêm suốt sáng. So với trước đây, lễ cúng thần Lúa (Yang Kòi ) của người Châu Mạ ở Đồng Nai ngày nay có nhiều sự giản lược nhưng khi được tổ chức, những nghi thức, lễ vật, tiến trình đúng nghĩa của lễ hội vẫn được bảo lưu. Lễ hội này luôn được tôn trọng trong đời sống tâm linh của cư dân Châu Mạ , vì theo họ, vị thần Lúa liên quan trực tiếp đến chính đời sống của cộng đồng, bản thân của họ nhất. Người Châu Ro gọi thần linh là Yang (Giàng). Hệ thống thần linh người Châu Ro thờ rất phong phú: Yang Nhà, Yang Rừng, Yang Sấm, Yang Mưa, Yang Luá… Thần lợn rừng Họ xem việc cúng kiếng các thần linh là cách ứng xử phải lẽ đối với thế giới vô hình đang tồn tại, chi phối đến đới sống bản thân, cộng đồng. Người Châu Ro tổ chức cúng khi người thân bị bệnh tật, gia đình gặp nạn hay vi phạm bhững luật lệ cộng đồng ( những luật lệ được qui định, truyền lại từ bao đời qua ); hoặc cúng khi mở đầu việc làm mùa, thu hoạch hay làm bất cứ một công việc nào đó. Họ kêu cầu sự giúp đỡ hay tạ ơn thần linh. Đồng thời, qua cúng kiếng các thần linh, người Châu Ro bày tỏ lòng thành kính đối với tổ tiên, đó là giềng mối thân thuộc của gia đình, dòng họ mà bất kỳ trong cuộc cúng Yang nào người Châu Ro cũng phải thể hiện trong lời khấn. Trong các loại Yang, người Châu Ro xem trọng nhất là Yang Nhà, Yang Lúa, Yang Rừng. Những loại Yang này có tác động, ảnh hưởng trực tiếp và gần gụi trong hoạt động đời sống của cộng đồng. Yang Nhà theo quan niệm của người Châu Ro là chủ thể nuôi mạng sống gia đình, thân tộc; vì vậy trong bất kỳ lễ cúng nào, người Châu Ro đều trình lễ cúng qua Yang Nhà trước. Nếu không, thì việc cúng không trình qua Yang Nhà sẽ bị xem là hành động ngạo mạn, bị thần linh phạt nặng. Yang nhà được cúng bất kỳ thời gian nào trong năm. Yang Rừng được người Châu Ro cúng trước mùa mưa trong năm, không ấn định thời gian cụ thể. Dân làng góp lễ vật và người có uy tí nhất trong cộng đồng sẽ tổ chức hành lễ, thay mặt cho cộng đồng cầu xin thần linh của rừng núi ban ơn, hộ trì cho họ khi đi thực hiện các hoạt động liên quan đến rừng như săn bắn, khai phá nương rẫy…Yang Lúa được người Châu Ro cúng theo định kỳ hàng năm. Thời gian cúng không ấn định cụ thể nhưng thường trong khoảng từ tháng hai đến tháng ba âm lịch, vào những ngày trời đẹp, đêm có trăng sáng. Đây là lễ hội lớn nhất của cộng đồng và để lại những dấu ấn về lễ nghi nông nghiệp của người Châu Ro. Trước đây, khi tính cộng đồng còn chặt chẽ, thể chế nhà dài tồn tại, người Châu Ro tổ chức cúng Yang Lúa tại đây. Lễ hội cúng Yang Lúa thường kéo dài trong nhiều ngày đêm. Mọi người trong buôn làng đều tham dự. Những người thầy cúng giữ vai trò hành lễ trong các nghi thức. Lễ vật cúng Yang Lúa gồm: thịt gà, thịt heo ( đầu heo hoặc nguyên con còn sống ), bánh nếp dầu trộn mè, rượu cần, những bông lúa. Riêng phần bánh làm nhiều hay ít tuỳ theo gia chủ; những loại bánh này làm riêng dùng cho trong ngày cúng Yang Lúa, ngày thường thì không. Rượu cần được làm trước đó nhiều ngày, điều quan trọng là gạo làm rượu phải lấy từ rẫy của gia chủ chứ không được mược hoặc mua. Ngoài lễ vật cúng, một số loại cây trái được người Châu Ro làm để đãi khách như: đọt mây rừng, rau nhíp, củ mì, cơm lam, củ nần, củ chụp được đốt nương trong ông tre lồ ô. Khi tiến hành lễ cúng, người Châu Ro làm cây nêu lớn đặt trước sân. Cây nêu được làm từ cây vàng nghệ, cao chừng 5 mét. Trên ngọn của cây nêu, người Châu Ro làm một giỏ hình cái phểu. Để làm giỏ này, người Châu Ro dùng mây buộc chặt một phần của ngọn ( cách ngọn khoảng 2 tấc ) và chẻ từ ngọn xuống chỗ buộc làm 8 phần rồi nẻ ra. Sau đó, chọn thêm 10 thẻ tre bằng nhau tạo thành hình cái giỏ có 18 phần thẻ bằng nhau. Các thẻ này được bện kết với nhau bằng lạt mây rừng. Từ chỗ buộc dây tạo dáng hình phểu được mở rộng dần lên tạo thành một cái giỏ lớn. Trên vành miệng giỏ, người Châu Ro trang trí 36 chùm tia. Các chùm tia này làm từ cây vàng nghệ. Ban đầu người Chơro chặt từng đoạn thẳng bằng nhau được bào vỏ khá kỹ càng. Đoạn cây gỗ vàng nghệ hình chữ nhật. Một đầu đoạn cây gỗ giữ nguyên làm gốc. Người Châu Ro dùng dao côi chẻ tia từ đầu ngọn vào tạo nên một chùm tia với các lát dát mỏng hình vòng cung xoắn đều. Các chùm tia được gắn vào với phần gốc trên vành giỏ, chùm tia tỏa xuống phía dưới và ra bốn bên đều nhau tạo hình bông lúa lớn rất đẹp. Từ tâm chính của giỏ buộc một đoạn cây tre ngắn cao vượt lên vành giỏ khoảng 40 tấc. Trên đoạn tre này buộc một khoanh bông gòn và trên cùng là chùm lúa chín, nhiều hạt. Trên vành miệng giỏ người Châu Ro trang trí 4 tia hơi ngả ra phía ngoài, đối xứng với qua đoạn cây tre cột chùm lúa chín. Các tia này cũng làm từ thân cây vàng nghệ. Trên thân các tia mỗi đoạn được vạt dồn những dăm bào xoắn dính liền từng nấc cho đến phần ngọn. Đầu hai tia cột một ít lông gà và hai tia còn lại buộc mỗi tia hai dát bông bào mỏng, dài của thân cây vàng nghệ tượng trưng cho lông đuôi của chim chèo bẽo ( trước đây người Châu Ro gắn lông đuôi của loài chim chèo bẽo ). Từ 4 tia này được cốt nối kết bằng các sợi chỉ qua lại đan xen nhau và trên các sợi chỉ gắn trang trí những cục bông gòn nhỏ. Từ ngọn cây nêu trở xuống khoảng 6 tấc, người Châu Ro đục bốn lỗ vào thân cây. Tại bốn lỗ này đạt vào bốn thẻ nêm bằng nhau, từ thân cây chính đối xứng ra bốn hướng. Các thẻ nêm cũng làm từ cây vàng nghệ, mỗi thẻ dài khoảng 2 tấc và rộng khoảng 0,5 tấc. Trên các miếng thẻ nên phía đầu ngoài có khoét sẵn một lỗ tròn nhỏ. Bốn lỗ trên thẻ nêm dùng để gắn bốn cây nêu nhỏ. Từ chỗ các thẻ nêm phía trên xuống phía dưới thân cây khoảng 6 tấc có thêm bốn lỗ đục âm vào thân cây. Tại đây cũng gắn các thẻ nêm như phần phía trên nhưng các thẻ nêm có kích cỡ to hơn. Trên các thẻ nêm trên toàn thân cây nêu có 8 cây nêu nhỏ. Những cây nêu nhỏ này cũng được làm từ cây vàng nghệ. Cách thức làm cây nêu nhỏ và cách trang trí trên nó cũng giống như làm cây nêu lớn nhưng kích cỡ nhỏ hơn. Mỗi cây nêu nhỏ dài khoảng 1 mét. Các phần bài trí trên cây nêu nhỏ tuân thủ theo số chẳn, như: 8 thanh làm giỏ, 14 hay 16 chùm tia và 4 tia trên vành. Điều khác biệt so với cây nêu chính là trên các giỏ cây nêu nhỏ không có gắn chùm bông lúa. Các cây nêu nhỏ được gắn vào các nêm chốt có phần ngọn đưa lên 1 phần và 2 phần gốc hướng về gốc cây nêu chính. Từ các phần gốc cây nêu nhỏ buộc những lát thân cây vàng nghệ dài, xoắn, dát mỏng thả xuống; phía trên thân và đuôicác lát dát mỏng buộc các nếp bông gòn nhỏ. Khi cây nêu được làm xong, người chủ nhà khấn Yang và cho trai làng dựng cây nêu trước khoảng sân nhà sàn. Tại chỗ dựng gốc nêu chôn một đoạn gốc có chạng chĩa làm đôi để giữ và buộc dây mây vào khoảng gốc khoảng 5 tấc. Cây nêu có ba tầng nấc chính. Trên cao là chùm lúa nhiều hạt vươn lên với vai trò chủ thể cúng của người Châu Ro. Hai tầng nấc cây nêu nhỏ trên thân cây nêu chính tượng trưng cho thần linh và tổ tiên. Cây nêu được dựng lên như một nghi thức có tính chất trình báo về lễ cúng mà người Châu Ro quan niệm Yang lúa và các thần linh, tổ tiên biết được để đến dự. Cây nêu là biểu hiện sự giao cảm, giao hoà giữa con người Châu Ro với thần linh, với tổ tiên. Trong lễ cúng Yang Lúa người Châu Ro làm một cây nhang bằng tre dài trên một mét. Phía ngọn tơi ra hình cái rọ tượng trưng cho bông lúa lớn. Đầu cây có bốn tia ra được uốn rất đẹp; hai tia tượng trưng cho chim chẻo bẽo/ biểu tượng cho sự mạnh mẽ, khôn ngoan, hai tia tượng trưng cho lông gà/ hình ảnh thể hiện cúng Yang hằng năm của gia đình. Bàn thờ cúng có ba tầng nấc được làm bằng loại cây rừng và tre, gắn vào vách trên phần nhà sàn chính. Phần trên cùng có cây sáp ong để đốt khi khấn vái, tượng trưng cho sự đáp từ, phù hộ của thần linh; bên cạnh có chén vỏ cây chùm hum được hun khói xông và một ít lễ vật tượng trưng bằng thịt con vật cúng. Phần giữa bàn thờ bài trí lễ vật nhưng không có sáp ong, chén xông hương. Phần dưới cùng bàn thờ bày nhiều lễ vật cúng từ thịt đến trái cây, các loại bánh. Trước bàn thờ đặt ché rượu cần. Có những sợi dây nối từ miệng ché rượu cần lên trên trần nhà, nơi đang để những bông lúa của mùa cúng trước. Trên những sợi dây được kết những bông gòn theo từng nấc tượng trưng cho cái thang để thần linh đến dự hưởng rược cần của mùa lúa đã thu hoạch. Người gọi Yang thường là người lớn, có uy tín trong nhà ( ở Lý Lịch thì người gọi Yang giữ cho đến cuối đời, sao đó trao lại cho con; một số địa phương khác thì người thầy cúng giữ nghi thức này ). Lễ cúng Yang thường được bắt đầu vào buổi sáng với nghi thức rước hồn lúa. Bắt đầu cho buổi lễ cúng Yang lúa là nghi thức rước hồn lúa. Khi buổi sáng của ngày cúng bắt đầu, lúc mặt trời lên, người nhà của người Chơro tổ chức lễ thực hiện việc đi rước hồn lúa. Người gọi nhang lại khấn trình trước bàn thờ và cho người đi lên rẫy. Người phụ nữ chính trong nhà và người thân ( thường đoàn đi rước có ba người ) đem theo liềm, chà gạc, bầu khô đựng nước để trong gùi mang đi. Họ đi về hướng rẫy lúa nơi để dành sẵn một chùm lúa chín. Rẫy lúa ở khá xa với nhà người Châu Ro đang cư ngụ. Tại khu rẫy, khi thu hoạch mùa màng, người Châu Ro để lại một vạt lúa tốt có những bông lúa trĩu hạt. Những bông lúa tốt được bó lại bằng tranh, rơm, lá chuối và rào bốn bên bằng các loại gai bằng tre, cây cối để bảo vệ. Khi đi đến nơi, người phụ nữ chính thực hiện nghi thức khấn. Lời khấn mang nội dung mời hồn lúa từ rẫy về nhà dự lễ cúng và cầu xin thần lúa ban cho mọi sự tốt lành. Khấn xong, người phụ nữ lấy nước trong trái bầu khô đem theo rảy vào chùm lúa thể hiện sự tẩy sạch và tươi tắn cho chùm lúa chọn. Những người đi theo dỡ bỏ những rào che, mở chùm lúa khỏi những dây bó, lá chuối và lấy liềm gặt lấy, bó lại, bỏ vào gùi. Khi gặt chùm lúa chọn xong, những người đi theo tìm đến một phần rẫy khác để chặt hai ngọn mía và đào hai cây chuối con. Những cây mía và cây chuối cũng được chọn sẵn trước với điều kiện lá xanh, đọt thẳng. Trước khi chặt và đào cây mía, cây chuối, người Châu Ro đọc lời khấn mời theo hồn lúa về dự lễ cúng. Tất cả những đồ vật được bỏ vào gùi và mang về nhà trình qua nhang nhà. Những vật lấy từ rẫy có ý nghĩa quan trọng trong quan niệm của người Châu Ro khi tổ chức cúng. Chùm bông lúa chọn là hồn lúa của mùa màng và qua đó, người Châu Ro thể hiện lòng biết ơn đối với thần linh trong mỗi kỳ làm rẫy. Cái tốt nhất, đẹp nhất dành cho ngày cúng tế Yang lúa. Hai cây mía và hai cây chuối con thể hiện sức sống, sự sinh sôi nảy nở cho các loại cây khác mà người Châu Ro trồng tỉa trên nương rẫy. Con số hai ( chẵn ) của lễ vật rẫy biểu hiện của người Chơro trong quan niệm sự hoàn thiện, có đôi, có bạn cho cả người chủ rẫy, chủ gia đình người gọi nhang. Khi những người đi rước hồn lúa về thì họ dừng lại ngay tại gốc cây nêu. Tại gốc cây nêu có buộc sẵn các con vật hiến tế là heo và gà. Người Chơro để gùi xuống chứa đựng các vật đem về từ rẫy: chùm bông lúa, hai cây mía, hai cây chuối như trình báo cho thần linh chứng giám. Sau đó, người phụ nữ mang gùi lên nhà sàn và giao lại cho người gọi nhang. Người gọi Yang ngồi trước ché rượu cần, hương về bàn thờ đọc lới khấn trình; phía sau có người đứng phụ giúp. Nội dung lời khấn chủ yếu trình bày lễ cúng, cảm tạ thần linh tổ tiên đã giúp đỡ đợt mùa qua và cầu xin được tiếp tục phù hộ cho đợt mùa sắp tới. Ngươi đọc lời khấn vừa đọc vừa bước đến bàn thờ nâng lễ vật cúng lên mời thần linh chứng giám. Khi kết thúc phần nghi thức trên gian nhà chính, người gọi Yang đi đến nhà kho đựng lúa, người phụ giúp mang lễ vật cúng đi theo. Trên mâm lễ vật có cây Nhang đã được bôi huyết con vật tế trong ngày cúng. Mọi người tham dự đi theo và đứng phía dưới sàn. Chỉ người gọi Yang lên kho lúa. Lễ vật cúng bày hẳn trên lúa và bắt đầu nghi thức gọi Yang Lúa. Khi những nghi thứ cúng xong, mọi người trở lên nhà sàn chính để dự tiệc. Thức ăn cho ngày cúng được bày ra để đãi khách. Rượu cần được khai mở để mời khách uống. Người phụ nữ lớn tuổi nhất gia đình uống trước và sau đó mới mời khách theo thứ bậc tuổi tác. Trong thời gian dự tiệc, cồng chiêng được trổi đánh với các giai điệu hội hè. Nhiều người dân tộc nhảy múa, hát những bài ca của cộng đồng. Đêm xuống, trước sân nhà sàn, người Châu Ro đốt lửa và tiếp tục cho ngày hội cúng với một không khí náo nhiệt. Nhiều người nhảy múa, hát ca đi xung quanh đống lửa. Các nhạc cụ dân tộc Châu Ro như đàn tre, khèn môi, cồng chiêng được những lớn tuổi thi nhau trổi nhạc theo thứ tự. Mọi người vui hoà trong không khí hội với men rượu cần cho đến khi đống lửa tàn. Tại một số địa điểm khác như xã Túc Trưng huyện Định Qúan, người Châu Ro tổ chức lễ cúng Yang thường trên nhà sàn chung của cộng đồng ( nhà sàn được tái dựng mới ). Trước bàn thờ Yang, người Châu Ro đặt dãy ché rượu cần và trang tri những sợi dây chỉ, bông gòn nối liền bàn thờ. Khi cúng, nhiều thành viên trong cộng đồng cầm đèn sáp đọc lời khấn. Nội dung lới khấn với mục đích là cầu an, cầu mùa. Xong nghi thức cúng, những người tham dự lễ hội đánh cồng chiêng, hát múa trong không khi vui tươi, sôi nổi. Ở một số địa phương khác, người Châu Ro còn tổ chức lễ cúng hội mùa lúa. Người Chơro thường tổ chức lễ hội cúng lúa mới vào tháng mười âm lịch khi thu hoạch, cũng có thể đó là lễ hội được mùa, lễ hội mừng cơm mới. Điều khiển, chủ trì lễ hội là thầy cúng ( Spăm Chn´hau ) hoặc thầy bùa ngải ( Spăm Dang Trúc ), bà bóng ( Spăm ). Thầy cúng ( Spăm Chn´hau ), bà bóng ( Spăm Tăm Vly ) là cầu nối giữa thế giới trần gian và thế giới thần linh. Thầy cúng, bà bóng là người trần gian có hiểu biết về luật tục, thông thạo các bài văn cúng lễ, các điệu hát, điệu múa, là người có thể truyền đạt những tín hiệu đến với thế giới thần linh bằng những thức diễn xướng ca, múa, nhạc, văn, thơ. Khi đã nhập thần, nhập hồn thì trở thành người của thần linh, lắng nghe, tiếp nhận những lới cầu khẩn của người trần gian và sẽ ban phước lành cho người trần gian. Khi xuất hồn, xuất thần thì thầy cúng, bà bóng lại trở về với trần gian. Nên thầy cúng, bà bóng được cộng đồng tôn trọng và là người chủ trì trong mọi hình thức tín ngưỡng lễ cúng của mọi gia chủ trong cộng đồng người Châuro. Ngày nay, do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu về kinh tế, người Châu Ro cúng Yang giản lược hơn trước và không kéo dài. Dẫu vậy, quan niệm về Yang Lúa vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng Châu Ro.Tín ngưỡng, lễ hội cổ truyền của người Châu Ro, Châu Mạ ở Đồng Nai ngày càng có những biến đổi. Hiện nay, phần lớn người Châu Ro, Châu Mạ giản lược các nghi thức cúng trong các lễ cổ truyền. Lễ hội cũng ít được tổ chức, trong đó có nhiều nguyên nhân tác động: tôn giáo, đời sống kinh tế, kết cấu xã hội cổ truyền không còn như trước đây. 6. Văn hoá nghệ thuật Cư dân Châu Ro, Châu Mạ là cư dân bản địa, có kho tàng văn hóa rất phong phú và sống động. Vốn quí văn hóa người Châu Ro, Châu Mạ đã góp phần làm phong phú thêm văn hóa Đồng Nai trong bối cảnh chung của khu vực, của quốc gia trong tính đa dạng, thống nhất. Các công trình nghiên cứu cho thấy, cư dân Châu Ro, Châu Mạ còn bảo lưu nhiều chuyện cổ, thần thoại, truyền thuyết gắn liền với lịch sử của dân tộc mình; phản ánh sự nhận thức của họ về vũ trụ, thế giới, thần linh, nguồn gốc, những cuộc đấu tranh của cộng đồng qua bao thời kỳ lịch sử. Cộng đồng Châu Ro, Châu Mạ có đời sống văn hoá tinh thần phong phú, thể hiện qua tín ngưỡng, lễ hội mà trong đó nhiều thể loại văn hoá dân gian, văn hoá nghệ thuật khá độc đáo nhưng hiện nay đang dần bị mai một nghiêm trọng do nhiều yếu tố tác động. Vì không có chữ viết nên văn chương truyền miệng của người Châu Ro, Châu Mạ được lưu truyền chắc chắn có nhiều thay đổi, biến đổi trong nội dung, tình tiết. Trên hướng phát triển chung của xã hội, những sự biến đổi hay thay đổi như thế là không tránh khỏi, làm mất yếu tố định hình gốc nhưng ở một bình diện khác nó làm cho vốn văn hoá dân gian này đa dạng hơn, phong phú hơn và thể hiện cách nhìn phù hợp trong điều kiện xã hội cụ thể mà cộng đồng dân cư trải qua và hướng đến. Văn chương truyền miệngcủa người Châu Ro, Châu Mạ phong phú về nội dung và đa dạng trong cách thể hiện. Người kể chuyện theo kể nhớ về chuyện xưa như lời tự thuật, kể cho đối tượng khác nghe và lời kể nghe có những chuyện mà người kể như hoá thân vào nhân vật. Lối kể và lơì kể có vần điệu mà chúng ta có thể tạm gọi là lối hát kể xuất hiện trong cộng đồng người Châu Mạ. Lối hát kể khi có hai người thể hiện là một trong những thức thể hiện dạng Tăm pớt. Ở đây, cần có sự phân biệt là Tăm pơt là một trong những lối hát kể nhưng chuyện kể thì không phải là Tăm pơt. Văn chương truyền miệng của người Châu Ro, Châu Mạ phong phú về nội dung như giải thích hiện tượng thiên nhiên, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, nguồn gốc các loài, đề cập những yếu tố xã hội, lịch sử, có không gian, thời gian được định hình hay phiếm chỉ..vv…Trong chuyện kể của hai cộng đồng Châu Ro, Châu Mạ có những chuyện kể đề cập nhiều vấn đề và cũng có những chuyện kể chỉ đề cập một vấn đề. Vì vậy, nội dung chuyện có chuyện khá dài, có chuyện rất ngắn. Chuyện kể không tuân theo “ quy ước“ chuẩn mà có cách thể hiện riêng. Có chuyện dẫn giải rất nhiều chi tiết cũng có chuyện ít chi tiết, trực tiếp hay hay gián tiếp đi vào nội dung thể hiện. Chính điều này tạo nên sự cuốn hút cho đối tượng nghe. Mỗi chuyện kể của tộc người khác nhau có những đặc điểm riêng. Tong quá trình hình thành, phát triển và sự giao thoa của nhiều luồng văn hoá qua các thời kỳ của các tộc người thì những tác động về kinh tế, xã hội là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, nguồn văn hoá dân gian của cộng đồng Châu Ro, Châu Mạ mà trong đó có loại hình chuyện kể cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại với nhau bởi vì họ cùng chung môi trường tự nhiên, xã hội. Điều này thể hiện qua các tình tiết chuyện, theo mô típ chung ở một số chuyện kể. Nghệ thuật tạo hình của người Châu Ro, Châu Mạ thể hiện trên những kiến trúc nhà sàn ngày nay có nhiều thay đổi. Theo một số tài liệu nghiên cứu trước đây, cho thấy nhà sàn là kiến trúc chung của cộng đồng, dòng tộc. Kiến trúc nhà sàn thể hiện kiểu thức hình chữ nhật, mái gập theo tạo nóc bởi đòn dông chính, hai vách nhà sàn nghiêng chỏi ra. Thế nhưng, trong lối kiến trúc những nhà sàn hiện tại có những yếu tố mới mà đặc trưng là theo kiểu kiến trúc nhà Việt. Các cây nêu trong lễ hội có nhiều biểu trưng cho nghệ thuật tạo hình của người Châu Ro, Châu Mạ. Những hình tượng biểu trưng chủ yếu là hình tròn, hình chữ nhật. Những mô típ trang trí theo phác hoạ hình tượng nhưng con thú dùng hiến tế như dê, trâu ( đầu hay cặp sừng ). Những mô típ xoắn thể hiện trong hoa văn cây nêu và tua của bông cây nêu tượng trưng cho bông lúa, cho sự sinh sôi nảy nở. Màu sắc chủ đạo trong tạo hình thường gặp là đen, trắng, vàng, đỏ và chúng được phối tương phản nhau. Trên sản phẩm thổ cẩm ( váy, mền, khố, túi…), chủ yếu của người Châu Mạ những mô típ hoa văn được tạo hình thường gặp là con người, chày cối, con bướm, con khỉ, cây đèn, công nghiệp mắt, chim chóc…được thể hiện cách điệu với những ý nghĩa của nó. Với hình dáng con người là biểu hiện sức mạnh và toàn quyền trên của cải; con mắt biểu trưng cho sự sáng suốt tinh thông và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, con người; con bướm là lời cầu khẩn nhanh đến với thần linh; cái cối thể hiện đức tính siêng năng của người phụ nữ; cây đèn biểu trưng cho niềm vui trong lễ hội…Bên cạnh các hình tượng đó là các hình học mà chủ đạo là hình thoi nối liên, đan xen nhau. Mỗi kiểu hoa văn đều hàm chứa những ý nghĩa riêng theo quan niệm của người Châu Mạ. Nó vừa thể hiện chức năng trang trí đồng thời là tư duy liên quan đến ý niệm, cách nhìn của người Châu Mạ đối với thề giới tự nhiên, xã hội con người. Loại hình nghệ thuật hát, múa, nhạc của người Châu Ro, Châu Mạ thường được kết hợp thể hiện trong những lễ hội cộng đồng và được lưu truyền qua truyền miệng (hát), thực tiễn hoạt động lễ hội (múa) và trong các sinh hoạt thường ngày. Thế nhưng, lễ hội ngày càng được ít tổ chức, những nhạc cụ thì không còn lưu giữ và vì thế, chính cộng đồng Châu Ro, Châu Mạ cũng không có nhiều cơ hội để hưởng thụ, nhận biết. Những người lớn tuổi thì ngày càng ít đi trong khi lớp trẻ không có ý thức giữ gìn những vốn quý văn hoá này hoặc có muốn thì cũng khó khăn về việc truyền dạy. Về hát, hầu hết những bài hát của dân tộc Châu Ro, Châu Mạ chỉ còn một số ít người lớn tuổi còn nhớ. Người Châu Ro, Châu Mạ hát khi ru con, khi đi làm rẫy và thể hiện nhiều nhất là trong các dịp lễ hội. Lời hát của các cộng đồng Châu Ro, Châu Mạ rất mộc mạc, nó phản ánh nhịp sống của cộng đồng trong các sinh hoạt thường nhật. Nghệ thuật biểu diễn múa có thể nói hầu như kém phát triển hay đã phai lạt nhiều trong đời sống cộng đồng. Trong lễ hội các phụ nữ lớn tuổi hay thanh nữ thường hay múa tập thể. Những động tác múa theo nhịp cồng chiêng, đi vòng tròn quanh đống lửa hay cây nêu. Người Châu Ro, Châu Mạ sử dụng toàn thân cho động tác múa nhưng những nhịp múa chủ yếu từ đôi tay và chân. Tất cả động tác lấy thân làm trục chính và thể hiện nét tạo hình qua hai bên và theo hướng lên xuống. Sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố giao lưu văn hoá, tôn giáo trong chừng mực nào đó đã tác động mạnh đến những điệu múa truyền thống của người Châu Ro, Châu Mạ. Thực tế, những bài múa mà chúng ta thường gặp trong các đội múa của người Châu Ro, Châu Mạ biểu diễn hầu như có những sự pha trộn các yếu tố ngoại lai qua một quy trình “biên đạo”. Một số nhạc khí cụ người Châu Ro, Châu Mạ hay sử dụng và hiện nay còn phổ biến là bộ cồng ( 6 chiếc ), chiêng ( 7 chiếc ), đàn tre, kèn bầu, kèn môi, kèn lúa. Bộ cồng, chiêng và các nhạc khí cụ đều được sử dụng trong các dịp lễ hội. Bộ chiêng được treo lên và người đánh có thể trong tư thế dứng hay ngồi thực hiện. Bộ đồng la thì được người sử dụng làm dây đeo vào vai, đánh trong tư thế đứng khom người và bước đi, một tay đánh và một tay giữ âm nhịp. Tuỳ theo nội dung của lễ cúng mà người Châu Ro, Châu Mạ thực hiện những bài phối đánh phù hợp với hoàn cảnh. Những loại nhạc cụ như kèn lúa, kèn môi, kèn bầu, đàn tre hiện nay rất ít người sử dụng được. Kèn lúa dùng thể hiện tình yêu nam nữ, kèn môi chúc an chúc phúc; đàn tre, kèn bầu cho sinh hoạt hát múa cộng đồng.
Kể từ ngày đất nước thống nhất, cộng đồng Châu Ro, Châu Mạ nói chung và đời sống văn hoá nghệ thuật nói riêng được nhà nước quan tâm phát triển. Những thành viên của cộng đồng Châu Ro, Châu Mạ đã có nhiều đóng góp trong đời sống tinh thần của cộng đồng, địa phương. Loại hình hát múa bà con dân tộc Châu Mạ như Ka Rỉn và đội múa Mạ ở vùng Tà Lài, huyện Tân Phú từng tham dự nhiều cuộc thi, hội diễn, đoạt nhiều giải thưởng, bằng khen. Dân tộc Châu Ro vùng Túc Trưng huyện Định Quán có Điểu Được tham dự các cuộc thi về loại hình ca nhạc đoạt giải cao của địa phương và toàn quốc. Thế nhưng, những khó khăn về đời sống kinh tế, biến động của xã hội và đặc biệt do không có chữ viết, nên những vốn quý về văn hoá, nghệ thuật của người Châu Ro, Châu Mạ có nguy cơ bị mai một và mất hẳn. Ths Phan Đình Dũng |
Văn hóa Đồng Nai >