1.
Ở Đồng Nai, công tác nghiên cứu khảo cổ học đã góp phần quan trọng trong việc
tìm hiểu về lịch sử của vùng đất này. Những di tích, di vật khảo cổ học ở Đồng
Nai được phát hiện, nghiên cứu rất sớm và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử gắn
liền với công lao của của các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.
Hơn một thế kỷ với hàng trăm cuộc điều
tra, thám sát, khai quật, khảo cổ học đã đưa ra ánh sáng hàng trăm di chỉ với
hàng chục vạn hiện vật: công cụ sản xuất, sinh hoạt, đồ trang sức, đồ thờ, nhạc
cụ... rất đa dạng, phong phú và những cấu trúc địa tầng văn hoá đã cung cấp một
nguồn cứ liệu, thông tin quan trọng về niên đại, trình độ văn minh, hình thái
xã hội của những lớp cư dân cổ Đồng Nai.
Từ những phát hiện lẻ tẻ lúc ban đầu
vào những thập niên cuối thế kỷ XIX cho đến việc nghiên cứu hệ thống khoa học
các di tích, di vật trên địa bàn Đồng Nai hiện nay, các nhà khoa học đã đưa đến
những nhận định về một nền văn hoá cổ từng hình thành được định danh “ Phức hệ
văn hoá Đồng Nai “ hay ” Văn hoá Đồng Nai “. Đồng Nai được biết đến với tư cách
là một trong những trung tâm của buổi bình minh xã hội loài người. Nơi đây,
từng chứng kiến sự hình thành, phát triển của cộng đồng người cổ thời tiền sơ
sử cho đến những thế kỷ sau công nguyên, trước khi cư dân Việt đến khai khẩn
vào thế kỷ XVI. Hàng loạt các di tích, di vật khảo cổ học đã góp phần làm sáng
tỏ một nền văn hoá cổ xưa từng tồn tại và phát triển trên vùng đất này. Các di
tích khảo cổ gồm các loại hình: cư trú, công xưởng, mộ táng, đền tháp... của cư
dân cổ trải đều trên các địa hình đặc trưng của Đồng Nai từ vùng núi đồi tiếp
giáp cao nguyên đến vùng đất đứt gãy phun trào đất đỏ ba - zan và cả vùng phù
sa cổ các bồn trũng, vùng ngập nước cận sông, biển.
Bên cạnh những chủng loại hiện vật
đa dạng từ nhiều chất liệu khác nhau như đồ đá, đồ gỗ thì đồ gốm được phát hiện
chiếm số lượng khá nhiều trong các di chỉ khảo cổ học được phát hiện ở Đồng
Nai. Điều này cho thấy, các cư dân cổ vùng Đồng Nai trong tiến trình phát triển
của mình đã biết chế tác và sử dụng đồ gốm. Dựa trên những kết quả nghiên cứu
khảo cổ học, chúng tôi mong được giới thiệu một số những di chỉ khảo cổ đã từng
được phát hiện những hiện vật gốm tiêu biểu để người đọc có cái nhìn khái quát
về đồ gốm cổ trên vùng đất Đồng Nai.
2.
Một số di chỉ di chỉ khảo cổ học tiêu biểu:
- Di chỉ Bình Đa ( thuộc
phường An Bình, thành phố Biên Hoà ). Năm 1979,
di chỉ được khai quật lần thứ nhất. Rất nhiều hiện vật bằng đá, gốm được
phát hiện, trong đó có hàng chục ngàn mảnh gốm. Riêng trong hố khai quật số 1,
các nhà nghiên cứu thu nhặt 38.000 mảnh gốm. Gốm được làm bằng bàn xoay và nặn
bằng tay, có độ nung cao, áo gốm được miết láng. Có 4 loại gốm ( phân loại theo
màu sắc và chất liệu ): gốm đỏ và đỏ nhạt, gốm xám, gốm đen và gốm thô. Số
lượng gốm được tranh trí hoa văn chiếm tỉ lệ cao. Hoa văn được tạo bằng cách dập ( hình nan chiếu ),
chải, vạch và miết láng. Đồ án thường thấy là các đường thẳng song song, lượn
hình sóng, nửa đường tròn quay ( phiá trong có những hình nửa đường tròn nhỏ
hơn, đồng tâm quay cùng một hướng ), hình răng sói và hình chữ nhật.
Mặc dù, không có đồ gốm nào còn
nguyên vẹn hình dáng nhưng cũng có thể nhận dạng được một số loại hình như kiểu
bát bồng có chân đế cao hình ống hoặc choãi ra, nhiều kiểu nồi, vò có đáy tròn,
đáy lõm và đáy bằng.
Năm 1992, đợt khai quật lần thứ hai
thu thập được 105 đồ đất nung và 9.389 mảnh gốm vỡ thuộc các loại hình đồ đựng
khác nhau. Trong đó, đồ gốm còn nhận được dạng như: bình ( số lượng 1, dạng con
tiện, được chế tạo bằng bàn xoay, xương màu nâu, vỏ phủ màu nâu gạch); hũ ( số
lượng 2, bị vỡ, chất liệu bằng đất sét
pha cát thô, độ nung cao, xương cứng, áo phủ màu nâu sành, miệng loe vành );
đĩa ( số lượng 4, chất liệu sét pha nhiều bả thực vật, vỏ nhuyễn thể nghiền nát
và cát thô, độ nung cao, xương gốm dày); gốm hình trụ ( còn gọi là “ gốm sừng
bò ”, số lượng 5, chất liệu sét pha cát mịn, độ nung cao, xương rất cứng, đầu
trụ thon tròn và nhọn ); bi gốm ( số lượng 49, đường kính trung bình của bi từ
1,8 – 2,6 cm ); gốm tròn ( số lượng 11 mảnh, trên thân có trang trí hoa văn
thừng và chải mịn ); nồi nấu đồng ( số lượng 3, dạng tròn và bóp lại kiểu chuôi
muỗng, thành gốm dày, đường kính rộng trung bình từ 11 – 14 cm, cao 5 – 8 cm ).
Những mảnh gốm vỡ có 9.547 mảnh, trong đó có 3215 mảnh phần miệng, 63 mảnh nắp
đậy, 411 mảnh đáy đế, và 3.858 mảnh thân. Trong số các mảnh thân có 343 tiêu bản có gờ, 4.438 tiêu bản trơn và 1077 tiêu bản có hoa văn.
Gốm
Bình Đa đựơc chế tạo bằng tay ( chiếm tỉ lệ thấp ) và bàn xoay ở trình độ khá
tiến bộ. Chất liệu gốm từ đất sét được lọc kỹ, pha cát mịn, bột vỏ nhuyễn thể,
bã thực vật và một ít bột đá trắng, xám. Phần lớn hiện vật gốm Bình Đa có độ
nung cao, xương có màu đen nhạt, xám, nâu và cứng chắc. Aó gốm có hai loại.
Loại phủ màu bề mặt có màu như: nâu, nâu đỏ, xám vàng, xám nhạt, vàng nhạt,
trắng đục, đen ám khói và đa màu; loại bôi màu trang trí trước khi nung với
trình độ kỹ thuật cao có các màu chủ đạo là đỏ tươi, đen, nâu. Những tiêu bản
hiện vật gốm Bình Đa các loại cho thấy cư dân cổ đã xử dụng những thao tác kỹ
thuật như nặn vuốt, miết láng bằng tay, bàn đập – hòn kê, dải cuộn, gắn kết
chân đế hay gờ nổi để tạo hình tuỳ theo chức năng của đồ dùng. Hoạ tiết trang
trí trên gốm Bình Đa khá đa dạng như: văn chải, văn thừng, văn khắc, văn in, răng
cưa, khuông nhạc, đường cung, sóng nước, hình tam giác, hình bầu dục, đường cắt
chéo…
- Di chỉ Cầu Sắt ( xã Bình Lộc,
thị xã Long Khánh ): Di chỉ được khai quật tháng 12/ 1976. Niên đại đoán định
5000 – 4000 năm cách ngày nay. Di chỉ là loại hình cư trú của cư dân nông
nghiệp sớm và là xưởng chế tác đồ đá và đồ gốm. Đồ gốm thu thập được hầu hết bị
vỡ, không phục nguyên được. Số lượng gồm 15.786 tiêu bản, trong đó có 2.041
mảnh miệng, 206 mảnh đáy, đế, 13.539 mảnh
thân. Số tiêu bản gốm có hoa văn là 2.176 mảnh ( tỉ lệ 16% ), 11.363 mảnh trơn
( tỉ lệ 84% ). Gốm được chế tác bằng tay và bằng bàn xoay, hoa văn trang trí
bằng bàn dập, lăn thừng và khắc vạch, lớp áo gốm mịn, có màu sắc khác với xương
gốm. Có các loại gốm: gốm trắng, đỏ mịn; gốm đen thô; gốm đỏ thô và gốm đen
mịn.Một số loại hình như: chậu và nồi ( có kích thước lớn, miệng loe, đáy tròn
), bát ( miệng loe, đế ghép, thấp ), “ đậu “ – còn gọi là bát chân cao, trên
dạng hình đĩa, chân đế choãi cao; gốm tròn ( một số mảnh gốm được mài tròn,
được dùi lỗ ở giữa ).
- Di chỉ Gò Me ( phường Thống
Nhất, thành phố Biên Hoà ). Niên đại đoán định khoảng 3000 – 2500 năm cách ngày
nay. Hiện vật gốm thu được hàng trăm mảnh trong bề mặt và các địa tầng văn hoá.
Có ba loại gốm: gốm trắng ( chiếm số số lượng ít ), gốm đen và gốm đỏ. Hoa văn
được tạo bằng kỹ thuật chải, dập và in thừng. Một số loại hình thu thập được
như dọi xe sợi, bi gốm, chén rót đồng ( miệng phẳng, thành dày, đáy tròn
), dạng bát mâm có chân đế cao, choãi
rộng.
- Di chỉ Suối Linh thuộc địa
phận phân trường 3,lâm trường Hiếu Liêm ( huyện Vĩnh Cửu ). Năm 1985, di chỉ
Suối Linh được khai quật. Hiện vật gốm thu thập được gồm 39 chiếc bàn xoa, 1
mảnh gốm tròn, 1 thỏi gốm hình trụ; ngoài ra còn có 15.780 mảnh gốm vỡ của đồ
đựng và 397 mảnh vỡ từ các bàn xoa. Gốm Suối Linh thuộc loại gốm thô, pha nhiều
cát, bã thực vật và vỏ nhuyễn thể nghiền vụn. Aó gốm có màu nâu đỏ, nâu sẫm,
xương gốm có màu nâu nhạt hoặc cùng màu với áo gốm. Loại gốm có xương đen không
nhiều; gốm mịn có màu xám nâu hay xám vàng chiếm tỉ lệ khoảng 15% tổng số gốm
thu nhặt được. Những mảnh gốm vỡ cho thấy các các loại đồ đựng dạng nồi, vò có
miệng loe, hông và đáy tròn khá phổ biến trong cư dân cổ từng cư trú tại đây.
Một số ít đồ gốm có miệng khum, phía dưới có đế. Khoảng 14% mảnh gốm trong tổng
số thu nhặt có hoa văn, chủ yếu là văn chải ( tỉ lệ khoảng 90% ), số còn lại là
các loại văn miết, in, khắc vạch và đắp nổi. Di chỉ Suối Linh là địa điểm đầu
tiên thu nhặt được số lượng bàn xoa gốm khá cao. Các nhà nghiên cứu cho rằng có
thể di chỉ là công xưởng sản xuất đồ gốm nói chung hay bàn xoa gốm nói riêng
của cư dân cổ để trao đổi với các khu vực khác. Niên đại di chỉ được ước định
khoảng 4.500 năm – 2.500 năm cách ngày nay.
- Di chỉ Suối Chồn thuộc địa
phận xã Bình Lộc, thị xã Long Khánh. Tại di chỉ, đồ gốm thu nhặt qua các đợt
đào thám sát và khai quật khá phong phú. Đồ gốm có dọi xe sợi, bi gốm, núm gốm
và nhiều mảnh vỡ; đặc biệt có các nồi gốm ( chum ) dùng để chôn người chết. Nồi
gốm dùng làm quan tài này có chiều cáo 50 cm, đường kính thân 60 cm, đường kính
miệng 45 – 50 cm, miệng loe, đáy lồi tròn, có văn chải trên thân nồi. Đồ gốm di
chỉ Suối Chồn có nhiều loại thô, min và xốp. Hầu hết, chúng được làm bằng đất
sét pha cát, có bàn xoay, độ nung khá cao. Gốm có các loại màu xám, đỏ gạch,
xanh xám, hồng nhạt. Loại hình nồi gốm có miệng loe, nồn miệng thấp. Hoa văn
trang trí là văn chải, văn khắc vạch hình tam giác cân có vạch đường song song,
loại hoa văn này phổ biến ở di chỉ Cái Vạn ( Nhơn Trạch ). Niên đại ước định
khoảng nửa sau Thiên niên kỷ I trươc Công nguyên.
Cụm di chỉ Hàng Gòn là tên gọi chung cho nhiều địa điểm mà
các nhà nghiên cứu đặt tên theo số thứ tự từ 1 đến 10 - nay thuộc địa phận thị
xã Long Khánh và huyện Cẩm Mỹ. Trên khu vực rộng lớn của Nông trường Hàng Gòn,
các nhà nghiên cứu phát hiện rất nhiều hiện vật khảo cổ thuộc các thời đại trong thời kỳ tiền sử. Tại
địa điểm Hàng Gòn 1( còn có tên Núi Gốm, đồi đất đỏ ba zan giữa Suối Râm và
Suối Sâu ), những mảnh gốm phát hiện chủ yếu là các dạng nồi, bát, tô, đĩa (
một số bát, tô có đế và có dấu khoan thủng ở đáy hoặc gần miệng ). Loại xương
gốm đen làm bằng đất sét trộn với bả thực vật và loại xương gốm trắng có trộn
cát thạch anh, phen phát, sạn sắt, Các loại gốm đều mịn, áo gốm có màu nâu, đỏ,
độ nung cao. Địa điểm Hàng Gòn 3 ( cách trung tâm Nông trường Hàng Gòn khoảng 1
Km về phía đông ) thu thập được những mảnh thân gốm mỏng từ các loại nồi, vò và
1 bi gốm. Xương gốm màu đen, áo màu nâu
vàng, hồng và nâu đỏ, độ nung kém. Một số mảnh dạng miệng cốc, bát chân cao đáy
bằng và nắp đậy có núm. Hoạ tiết trang trí là những đường song song, chéo nhau
được in hoặc dập. Địa điểm Hàng Gòn 4 ( phía bắc chân núi Cẩm Tiêm ) có những
tiêu bản gốm mỏng, có xương đen, xám, đỏ, vàng và được làm từ sét pha thạch
anh, phen phát. Hoa văn răng lược hoặc đan. Địa điểm Hàng Gòn 5 ( cách chân núi
Cẩm Tiêm 3,5 km về phía Bắc ) phát hiện nhiều mảnh gốm với các màu đa dạng. Gốm
màu vàng đỏ, xương xám pha nhiều cát, hạt phen phát chủ yếu từ các đồ đựng như nồi, vò, có mảnh
miệng có đường gờ để đậy nắp. Gốm màu đen pha thạch anh, độ nung cao; chủ yếu
là các đồ đựng kích thước nhỏ, trang trí văn thừng, văn đan và dấu in vải. Gốm
có xương màu xám pha cát mịn, dáng nồi nhỏ hay lọ có miệng xiên, độ nung cao.
Hầu hết được chế tác bằng bàn xoay. Niên đại khoảng 3000 năm cách ngày nay.
- Di chỉ Cái Lăng thuộc địa
phận xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch. Di chỉ được khai quật năm 2000. Niên đại
khoảng 2900 – 2700 năm cách ngày nay. Đồ gốm thu thập được trong đợt khai quật
chiếm số lượng lớn gồm: những đồ gốm còn nguyên dáng có 1 dọi xe chỉ, 7 bi gốm,
10 mảnh cà ràng, 1 bát, 1 đĩa, 1 bàn dập, 11 chân đế, 1 nắp đậy; mảnh gốm có
172.383 tiêu bản. Có hai nhóm gốm: gốm thô và gốm mịn. Gốm thô có độ nung thấp,
thành phần phôi gốm có trộn nhiều cát, sạn và một số ít chất phụ gia như tro
mùn, bã thực vật và cả nhuyễn thể đã được nghiền vụn. Lớp áo gốm mỏng, có màu
nâu, vàng nhạt hoặc màu đỏ. Kỹ thuật chế tạo bằng bàn xoay kết hợp với nắn sửa bằng tay, dụng cụ bằng tre, gỗ.
Nhóm gốm mịn có chất liệu đất sét mịn, chất phụ gia như cát cũng được lựa chọn
kỹ. Lớp áo gốm thường có màu nâu, có khả năng được tạo từ lớp phủ quét hay
tráng lớp bột mịn, sau đó được xoa và miết nhẵn. Độ nung cao và được tinh luyện
nên chắc, cứng. Hầu hết, những mảnh gốm vỡ Cái Lăng là những vật dụng của con
người cổ như đĩa, bát, vò có đáy tròn, đáy bằng và có chân đế.
Gốm
có hoa văn thu thập tại Cái Lăng ít nhưng đa dạng về loại hình. Các loại hoa
văn được thể hiện như: đường vạch ngắn, đường viền và những đường viền ngang
song song, các đường sóng kết hợp với đường vạch, hoạ tiết các hình tam giác,
hình sao, hình chữ V, đường chéo, đường vạch lõm, mảnh nhọn, hình hạt đậu ấn
lõm, miết vạch ô lưới hay đường cong… để
trang trí. Phần lớn, hoa văn được khắc vạch trên nền văn chải.
- Di chỉ Cái Vạn thuộc xã Long
Thọ huyện Nhơn Trạch. Di chỉ được đào thám sát năm 1977 và khai quật lần thứ
nhất vào năm 1978. Đồ gốm thu thập được trên 1.000 mảnh. Hầy hết, đồ gốm được
làm từ đất sét pha cát, hạt thạch anh và bả thực vật. Có hai nhóm gốm: loại gốm
mịn có xương màu xám đen và xám hồng, lớp áo mịn màu xám đen và xám vàng; loại
gốm xốp có khoảng 20%, xương gốm màu đen, nhiều bả thực vật, thường dày và thô.
Đa số các mảnh miệng gốm thuộc loại loe với nhiều kiểu dáng. Chân đế có 3 loại:
đế thấp, đế hình chóp ( loe xiên ), và đế hình trụ cao có phần dưới hơi choãi.
Khoảng 30% mảnh gốm có hoa văn, được tạo bằng cách chải, dập thừng, khắc vạch
và chấm dải. Văn khắc vạch có những đồ án khác nhau như hình tam giác nối nhau,
hình sóng…Phần lớn các mảnh gốm bị vỡ từ những loại đồ dùng để đựng của cư dân
cổ, ngoài ra còn có một số mảnh chân kiềng giống sừng bò và bi gốm.
Năm
1996, di chỉ Cái Vạn được khai quật lần thứ hai. Đồ gốm thu thập được trên
17.854 mảnh, gồm các loại: dọi xe chỉ ( số lượng 1), bi gốm ( số lượng 70, đường
kích trung bình từ 1,2 – 2 cm, một bi gốm lớncó đường kính 5,3 cm ), núm và bàn
xoa gốm ( số lượng 32, núm được vuốt nhọn với mặt cắt ngang hình tròn, bàn xoa
có chuôi cầm gần thẳng hoặc cong, mặt phẳng hoặc hơi lượn cong ), mảnh cà ràng
( số lượng 736 ), gốm tròn ( số lượng 22), được ghè hoặc mài tròn, đường kính
trung bình từ 3 – 5,5 cm ); mảnh gốm vỡ ( số lượng trên 15.953 ). Chất liệu gốm
làm từ đất sét phù sa sông pha nhiều cát, bã thực vật và bột vỏ nhuyễn thể. Có hai nhóm gốm: gốm cứng
và gốm xốp trong đó, gốm cứng chiếm tỉ lệ cao. Hoa văn gốm khá phong phú như
văn chải ( văn chải thô và mịn ) thường dùng que có rãnh tạo thành; văn thừng
thường kết hợp với văn chải; văn khắc vạch và in ấn thường được tạo với các kỹ
thuật chải, đập, miết. Những mô típ hoa văn như hình mũi giáo ( răng sói ),
đường sóng nước, đường vạch chìm song song
được thể hiện trên đồ gốm Cái Vạn. Một số lượng lớn tiêu bản gốm được
bâo phủ nhiều màu có tính chất trang trí, thể hiện trên nhiều vị trí của đồ
đựng. Niên đại di chỉ Cái Vạn đươc xác định 3.360 + 80 năm cách ngày nay.
Di chỉ Bình Xuân thuộc xã Xuân
Phú, huyện Xuân Lộc, cách núi Chứa Chan khoảng 3 Km về phía Tây Bắc. Nhiều hiện
vật của cư dân thời tiền sử được phát hiện, trong đó có nhiều mảnh gốm vỡ. Gốm
Bình Xuân có chất liệu tố, pha nhiều cát và bả thực vật; trong đó có nhiều mảnh
có lẫn những hạt thạch anh màu trắng, độ nung cao, độ cứng chắc. Xương gốm có
màu đen hoặc xám nâu; mặt ngoài bị bào mòn khá nhiều, gồm ba loại cơ bản: đỏ
nhạt, vàng và xám nâu. Một số mảnh gốm còn in dấu văn chải mịn. Đồ gốm chủ yếu
là từ các loại miệng loe khum, mép nhọn; phần cổ thường được chế tác kiểu có gò
nổi cao làm cho thành miệng lõm cong hình lòng máng. Một số ít mảnh thuộc các
dạng miệng gốm loe phẳng hay ưỡn cong; một số miệng có mép đáy vo tròn – loại
hình này thường xuất hiện phổ biến trong các di chỉ khác ở Đồng Nai. Niên đại
đoán định khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ II trứớc Công nguyên.
Di chỉ Đồi Mít thuộc ấp Bình
Lộc xã Xuân Bình, thị xã Long Khánh ( cách di chỉ Suối Chồn khoảng 3 km về
hướng nam và di chỉ Cầu Sắt 2 Ka Mài về
hướng đông ). Đồ gốm phát hiện tại Đồi Mít là những mảnh gốm vỡ vụn, có chất
liệu tương đồng với gốm tại di chỉ Bình Xuân. Trong một số xương gốm thường có
lẫn nhiều mảnh thạch anh, sạn sỏi. Loại gốm đỏ nhạt chiếm tỉ lệ nhiều hơn so
với gốm vàng xám nâu. Các mảnh gốm dạng mịeng chủ yếu có hình loe đơn giản, mép
miệng dày, được vuốt thành gờ phía ngoài và mỏng dần xuống phía cổ. Một số ít
miệng gốm dáng đứng thẳng, cổ thắt thành ngấn; một số mảnh miệng gốm mép ve
tròn và loe khum dáng hình lòng máng. Niên đại tương đồng di chỉ Bình Xuân.
Di chỉ Rạch Lá thuộc ấp Quới
Thạnh, xã Phước An huyện Nhơn Trạch được khai quật năm 2002. Bên cạnh hiện vật
đá, gỗ, đồ gốm thu thập gốm các loại: bi gốm ( số lượng 8 ), mảnh cà ràng ( số
lượng 1 ) và 508 mảnh gốm vỡ. Các mảnh gốm vỡ gồm nhiều loại, trong đó, gốm
miệng ( số lượng 135 tiêu bản, miệng loe, mép vê tròn hoặc có gờ mái, dáng miệg đứng ); chân đế ( số lượng 51 tiêu
bản, gồm loại chân cao và chân thấp, đáy bằng); mảnh thân ( số lượng 322, kích
thức nhỏ do bi phân rã ). Phần lớn là gốm thô, chất liệu sét pha nhiều cát, một
số mảnh pha bả thực vật. Aó gốm màu nâu và xám nhạt. Độ nung cao và xương gốm
cứng. Hoa văn trên các mảnh gốm chiếm tỉ lệ thấp, văn chủ yếu là văn thừng,
khắc vạch, chấm dải với hoạ tiết các đường song song, gấp khúc chữ chi, đường
cong lượn sóng, hình tam giác. Niên đại đoán định di xhỉ Rạch Lá vào khoảng
3.200 năm cách ngày nay.
Di chỉ Phước Tân nằm trên ngọn
đồi thấp, có độ cao khoảng 25 m ở hữu ngạn sông Lá Buông thuộc địa phận xã
Phước Tân huyện Long Thành. Bên canh hàng ngàn hiện vật đá có 615 hiện vật gốm
được phát hiện trên diện tích 2 héc ta. Đồ góm ở Phước Tân có một số loại như
gốm đỏ thuần, đỏ nâu, đen và gốm xám vàng. Xương gốm có màu đen, trộn lẫn sạn
latêrít, thạch anh, phen phát hoặc cát mịn. Hoa văn trang trí phần lớn là văn
in hoặc những đường song song và cắt chéo nhau, hình tam giác hay răng sói (rất
hiếm ) và những đường chấm dải; loại văn thừng có nhưng chiếm tỉ lệ thấp. Những
mảnh gốm vỡ ở di chỉ là từ các loại nồi đáy tròn, bát bồng (loại nhỏ còn được
gọi là cốc có đế loe ), bát tô…và hai bi gốm. Niên đại của
chỉ Phước Tân được nhà nghiên cứu H.Fontaine đoán định vào khoảng 3.500
– 3000 năm cách ngày nay ( thời đại đồng thau ).
Di chỉ Hưng Thịnh thuộc địa
phận xã Hưng Lộc huyện Thống Nhất. Đồ gốm phát hiện qua các cuộc thám sát gồm
có hai loại khác nhau về chất liệu. Loại bằng sét mịn, xương mỏng, đều, nhẵn;
màu nâu đỏ, nâu hồng; miệng loe ( khum hoặc xiên ), chân đế thấp dạng hình trụ,
hoa văn được in dập văn thừng mịn. Loại
bằng sét mịn pha nhiều hạt đá nhỏ màu trắng xám, áo gốm màu nâu nhạt,
nâu đỏ, miệng loe khum hình lòng máng, loe khum và xiên, đế thấp hơi choãi cao,
dáng tròn. Niên đại Hưng Thịnh được đoán định thuộc thời kỳ kim khí, vào khoảng
3.500 – 4000 năm cách ngày nay.
Di chỉ Suối Đá ( còn gọi là
Hàng Gòn 9 ) thuộc địa phận Nông trường Hàng Gòn, cách thị trấn Xuân Lộc 10 km
về hướng Tây Nam. Đây là khu mộ chum, nằm trên vùng đất đỏ ba zan, cạnh suối
Gia Liêu. Di chỉ do nhà ngiên cứu E.Saurin phát hiện vào những năm 60 của thế
kỷ XX. Tại đây có trên 60 chum gốm, chiều cao từ 20 đến 150 cm. Chum gốm được
phân thành 3 loại: loại có hông gần đáy, vành mép rộng, miệng loe; loại chum
hình quả trứng được tạo do kỹ thuật dải cuộn, có hoạ tiết đường song song trên
nền văn chải hình răng lược; loại chum có đát trũng, miệng loe, không có hoa
văn. Ngoài ra còn có các hiện vật gốm
khác như: bình ( nhiều đáy bằng, đáy trũng, miệng hẹp và rộng, mép mỏng ), nồi
( miệng loe, vành mép thấp, có hoa văn ), cốc ( miệng tròn, đáy phẳng ), đĩa,
chân đèn, nắp đậy, dọi xe sợi ( hình chóp cụt ), khoanh gốm ( dạng hình ống ).
Niên đại 2.300 + 150 năm cách ngày nay.
Di chỉ Phú Hoà cách thị trấn
Xuân Lộc 3 km về phía Nam, ven quốc lộ I. Trong thập niên 70, thế kỷ XX, nhà
nghiên cứu H. Fontaine phát hiện 46 mộ chum bằng gốm. Chum cao có chiều cao 75
cm, đường kính thân 40 – 80 cm, đáy hơi cong. Chất liệu làm chum từ sét pha cát
hạt lẫn khoáng vật. Aó gốm được miết láng màu đỏ hồng, một số trang trí hình
xoắn ốc tạo thành dải các chữ S nghiêng nối tiếp hoặc cách đều nhau. Ngoài 46
chum, hiện vật gốm còn có: nồi ( số lượng 7, đáy tròn, hoa văn trang trí hình
răng sói ), bình cổ thắt ( dáng tròn và hình quả trứng ), đĩa ( số lượng 38,
kích cỡ khác nhau, đáy bằng và uốn cong ), bát mâm bồng ( vỡ phần trên, hình
trụ giữa và đế nón ), bi gốm ( số lượng 2, hình cầu và hình đĩa ), ống chỉ và
một số mảnh chân đèn. Hoa văn gốm Phú Hoà được tạo bằng cách in dấu vải, chấm
dải, miết láng hoặc những đường khắc vạch sâu ( phần đáy, bụng, cổ ); các hoạ
tiết là đường băng song song, đường cong và nét gạch nhỏ, hình răng sói, đường
xiên, đường lược sóng, hình chữ S. Niên đại trong khoảng 2.500 năm cách ngày
nay.
Di chỉ Dầu Giây địa phận huyện
Thống Nhất do E. Saurin phát hiện năm 1965. Bên cạnh số hiện vật đá thu được
còn có 2 chum gốm không nắp và một số gốm vỡ. Dạng gốm từ các nồi có miệng loe
đáy cong, bình cổ loe có vai, đĩa đáy phẳng hơi lõm, lọ nhỏ, chum bụng nở. Chất
liệu gốm từ sét pha cát, than, bột tro bả thực vật và một số khoáng vật. Gốm
được nung ở nhiệt độ cao, tạo dáng và trang trí bằng văn thừng, khắc vạch vơí
các hoạ tiết vòng tròn, đường sóng nước, khuông nhạc, răng sói, xoắn ốc.
3.
Tổng quan về đồ gốm
qua kết quả khảo cổ học
Loại
hình: Trong những di chỉ khảo cổ học được thám sát, khai quật, hiện vật gốm
được phát hiện chiếm số lượng rất lớn. Trong đó, các tiêu bản gốm còn nguyên
dạng chiếm tỉ lệ thấp, số mảnh gốm vỡ chiếm tỉ lệ cao. Qua nghiên cứu, các nhà
khoa học đã định dạng được nhiều loại hình. Hầu hết, các hiện vật gốm là từ
những đồ dùng phục vụ cho cuộc sống của cư dân thời tiền sử.
Các loại bình, hủ, vò: Loại
bình, hủ còn nguyên dạng tìm thấy được trong các di chỉ khảo cổ rất hiếm. Tại di chỉ Bình Đa, một chiếc bình phát hiện
trên bề mặt di tích còn khá nguyên vẹn với dáng hình con tiện ( cao 22cm ),
được chế tác bằng bàn xoay, độ nung cao. Nhiều mảnh vỡ gốm tại các di chỉ được
định dạng là từ các đồ đựng như bình, hủ, vò chiếm số lượng khá nhiều. Các loại
bình, hủ có nhiều kích cỡ, được làm từ sét pha bột nhuyễn thể, bả thực vật, cát
và một số phụ gia khác với tỉ lệ vừa phải. Bình, hủ, vò thường có thân hình cầu
dẹt hay quả trứng, đáy tròn, đáy bằng, đáy lõm; thân bình phình ở giữa, đôi khi
có gờ ngấn, miệng loe. Riêng phần tạo dáng miệng rất đa dạng như: miệng khum,
miệng loe, miệng loe xiên, loe choãi với các gờ đủ kiểu. Phần chân đế được tạo
dáng đế bằng, đế choãi cao hoặc thấp.
Nồi: Các mảnh gốm vỡ từ các
loại nồi tìm thấy nhiều trong các di chỉ khảo cổ được thám sát, khai quật. Phần
lớn chúng có kích cỡ vừa và nhỏ. Nồi có hai loại: loại miệng loe, mép tròn hoặc
vuông, cổ thắt, bụng nở và thu hẹp dần về phía đáy, hoặc gãy khúc tạo thành
phần hông; loại miệng loe hơi khum, cổ thẳng đứng, thân tròn đều hoặc gãy khúc
tạo thành phần vai, đáy tròn, xương không dày. Nồi dùng trong việc đun nấu phục
vụ nhu cầu ăn uống và dùng để nấu đồng nấu đồng ( di chỉ Gò Me : 1, Bình Đa:
3).
Chum: Hầu hết những chum gốm
( hay vò lớn ) được tìm thấy trong các di chỉ mộ táng thuộc thời đại kim khí
như Dầu Giây, Hàng Gòn 9 ( Suối Đá ), Suối Chồn…Các tiêu bản chum thường có
dáng hình cầu dẹt hay quả trứng, thân bụng nở, cổ thắt hẹp, miệng rộng, đáy hơi
lồi tròn và gần phẳng. Chum có nhiều kích cỡ, chiều cao khoảng 40 – 60 cm, rộng
ngang thân 40 – 50 cm. Màu sắc các loại chum khá đa dạng, xương có màu nâu,
đen, lớp áo màu đỏ, hồng. Chất liệu từ sét pha cát thô thuộc laọi nham thạch
thạch anh, phen xpát. Chum thường được cư dân cổ dùng để chôn người chết và đồ
đựng sinh hoạt.
Bát: Các mảnh gốm vỡ trong nhiều di chỉ có một số được định
dạng từ các loại bát. Loại bát nhỏ tìm thấy ở di chỉ Cầu Sắt, Phước Tân. Chúng
có màu đỏ, đen; chất liệu gốm mịn, miệng loe, đế ghép thấp. Loại bát bồng ( còn
gọi là “đậu”, bát chân cao) có ở một số di chỉ như Cầu Sắt, Bình Đa, Phước Tân,
Gò Me…Chất liệu từ loại sét mịn, màu trắng hoặc đỏ. Phần trên có dạng hình đĩa,
loe rộng, miệng hơi khum, đáy hơi lồi; phần trụ tròn cao nối với đế có hình
chóp hơi choãi cong. Một số tiêu bản có văn đắp dải hay khắc vạch. Một số bát
bồng tìm thấy trong di chỉ thời đại kim khí có hai cặp lỗ thủng gầm mép miệng;
chiều cao từ 8 – 11 cm, đường kính miệng 15 – 22 cm, có loại nhỏ với kích cỡ
cao 6- 8 cm, rộng miệng 10 – 13 cm .
Đĩa: Một số đĩa nhận dạng qua các gốm vỡ tìm thấy tại các di
chỉ như Cái Lăng ( số lượng 1), Bình Đa ( số lượng 4 ), Phú Hoà... Chúng không
còn nguyên vẹn nhựng phục dựng được từ các mảnh vỡ. Chiếc đĩa ở di chỉ Cái Lăng
có miệng rộng, đáy nông, miệng loe xiên, mép miệng có trang trí hoa văn dày hơn
phần thân, giữa miệng và thân có đường gấp khúc. Những chiếc đĩa tìm thấy ở di
chỉ Bình Đa có hai loại: đáy nông và đáy sâu. Một chiếc đáy sâu có miệng tạo
thành vành bẻ gần như nằm ngang, xương dày, đáy cong đều, giữa thân và đáy có
sóng nổi tạo thành ngấn, bề mặt đĩa có phủ lớp áo mỏng màu nâu. Ba chiếc đáy
nông đồng dạng, đáy gần bằng, miệng được vuốt tròn và gần nhọn, đế trơn. Hầu
hết các đĩa được làm từ chất liệu sét pha nhiều bả thực vật, bột vỏ nhuyễn thể
và cát thô, độ nung cao.
Một
số đĩa là đồ tuỳ táng, được chôn trong các mộ chum. Số đĩa nguyên vẹn tìm thấy
khá nhiều, được xem là sản phẩm đặc trưng của di tích mộ chum ở Đồng Nai. Riêng
tại di chỉ Phú Hoà, theo thống kê của H.Fontaine có 36 đĩa, chia làm ba loại:
loại nhỏ có miệng gần thẳng đứng hoặc hơi loe, gần đáy có đường gờ nổi, đáy hơi
lồi, miệng rộng; loại vừa có vành miệng rộng, gần mép thường có` cặp lỗ tròn
đối xứng nhau; loại lớn có thành miệng gần thẳng đứng, đáy hơi lồi hoặc phẳng.
Bi: Hầu hết các bi gốm có dạng hình cầu, được làm
từ sét mịn, độ nung vừa, thường có màu đỏ nhạt hay nâu. Đặc biệt, tại di chỉ
Cái Vạn có một bi gốm vơí đường kính đến 5,3 cm được xem là lớn nhất trong số
những tiêu bản bi được phát hiện ở vùng Đông Nam Bộ. Bi gốm được phát hiện tại
một số di chỉ như: Bình Đa ( số lượng 50 ), Cái Vạn ( số lượng 78 ), Rạch Lá (
số lượng 8 ), Cái Lăng ( số lượng 7 ), Gò Me ( số lượng 3 ), Phước Tân ( số
lượng 2 ), Phú Hoà ( số lượng 2 )…Các bi gốm này còn được xem là đạn mà các nhà
nghiên cứu cho rằng cư dân cổ dùng trong việc săn thú nhỏ.
Dọi xe chỉ: Số lượng tiêu bản loại hình dọi xe chỉ được
phát hiện trong các di chỉ khảo cổ ở Đồng Nai rất hiếm. Theo các tài liệu công
bố trước đây, một số dọi xe chỉ được phát hiện tại, Gò Me ( số lượng 1 ), Cái
Vạn ( số lượng 1), Suối Chồn ( số lượng 2 ), Hàng Gòn 9 ( số lượng 2 ), Cái
Lăng ( số lượng 1). Hầu hết các dọi xe chỉ có màu hồng nhạt xen lẫn với màu xám
đen, hình nón cụt, có lỗ nhỏ xuyên qua chính giữa, mặt cắt ngang thân hình
thang dẹt, không có hoa văn. Chất liệu làm từ đất nung pha nhiều cát. Các dọi
xe chỉ là dụng cụ cho thấy cư dân cổ Đồng Nai đã biết đến nghề xe sợi, dết vải.
Bàn xoa gốm: Đây là
dụng cụ được sử dụng trong việc tạo dáng cho các sản phẩm là đồ đựng bằng gốm.
Bàn xoa gốm được phát hiện khá nhiều tại các di chỉ như Bình Đa, Cái Vạn ( số
lượng 32 ), Suối Linh ( số lượng 39, 60 chuôi cầm và trên 300 mảnh vỡ ), Cái
Lăng, Suối Chồn…Bàn xoa gốm có dáng hình chiếc nấm, gồm có chuôi và bàn xoa.
Phần chuôi là hình trụ dạng núm được vuốt nhọn hoặc hơi loe ( một số tiêu bản
có lỗ thủng chính giữa ), phần bàn xoa hình cầu, mặt tương đối trơn nhẵn, hơi
cong lồi; rìa mép có gờ hoặc vê tròn. Bàn xoa có nhiều kích cỡ khác nhau. Công
dụng của bàn xoa làm khi tạo dáng sản phẩm làm cho bề mặt trong đều, phẳng,
nhẵn và phôi gốm dược nén cứng. Bàn xoa thường được làm bằng sét pha nhiều cát
hạt lớn, bột vỏ nhuyễn thể, bã thực vật, sỏi sạn và lẫn vẩy mica. Chúng được
làm bằng tay, độ nung cao, xương cừng chắc.
Mảnh gốm tròn: Trong số hàng
nghìn mảnh gốm vỡ được phát hiện tại nhiều di chỉ khảo cổ trên đất Đồng Nai,
trong đó có những mảnh gốm tròn với một tỷ lệ nhỏ. Hầu hết các mảnh gốm này từ
những mảnh gốm vỡ của đồ đựng được đem mài, ghè tạo dáng hiình tròn với nhiều
kích cỡ khác nhau. Trên bề mặt những mảnh gốm tròn vẫn còn giữ nguyên những áo
gốm và hoa văn trang trí. Có mảnh được khoan thủng lỗ chính giữa. Các di chỉ
phát hiện mảnh gốm tròn gồm: Suối Linh ( số lượng 1), Bình Đa ( số lượng 11 ),
Cầu Sắt ( số lượng 16 ), Cái Vạn ( số
lượng 39 )…Cho đến nay, chưa xác định công dụng của loại di vật này. Có thể,
các mảnh gốm tròn được dùng để trang trí vàv các mảnh có khoan lỗ để trang sức
như đeo vào người hay vật.
Cà ràng: Đây là một dạng bếp của cư dân cổ.
Mỗi “ cà ràng ” có ba chân gắn với một bàn đế. Bàn đế thường có hình tròn, đáy
hơi lồi, xung quanh có bờ che vừa. Các chân “ cà ràng “ được tạo dáng trụ tròn,
thân hơi cong hoặc dẹt, đầu gắn đế tròn bằng, đầu trên hơi vuốt nhọn giống cái
sừng bò( cho nên chúng còn có tên gọi là gốm sừng bò. Các chân “ cà ràng ” gắn
lên chân đế theo kiều kiềng ba mà vị trí cách đều, thân hơi ưỡn ra, phía đầu
chum vào vừa phải để nâng vật đun nấu mà chủ yếu là các loại nồi. Loại
di vật “ cà ràng “ được tìm thấy ở một số di chỉ như: , Rạch Lá ( số lượng 1 ),
Phước Tân ( số lượng 1), Suối Chồn ( số lượng 10 ), Cái Lăng (số lượng 10 ),
Bình Đa ( số lượng 12 ), Cái Vạn ( 762 )…Các chân “ cà ràng ” có nhiều kích cỡ
khác nhau, có lẽ tương thích với các bàn đế mà cư dân cổ chủ đích tạo dáng.
Chất liệu làm từ sét pha nhiều bả thực vật, xương màu xám, đen hoặc xám đen. “
Cà ràng “ được xem là một loại vật dụng độc đáo của cử dân cổ ven sông nước.
Chất
liệu và kỹ thuật chế tác: Trong các loại sản phẩm gốm được tạo nên qua các thời
đại phát triển của con người, mọi vùng lãnh thổ, thành phần nguyên liệu chính
yếu vẫn là đất sét. Hầu hết, các loại sản phẩm gốm của cư dân cổ Đồng Nai được
chế tác từ chất liệu đất sét sẵn có trên địa bàn. Phụ thuộc vào địa bàn cư trú
của cư dân cổ mà họ khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ để làm nên sản phẩm gốm
dùng trong sinh hoạt. Với đặc điểm này, chúng ta có thể nhận thấy hiện vật gốm
phát hiện tại các di chỉ cùng trên địa bàn cư trú có những nét tương đồng về sử
dụng chất liệu sét, các chất phụ gia có trong từng sản phẩm gốm các loại. Các
địa bàn cư trú khác nhau thì chất liệu sét dùng làm gốm phụ thuộc vào yếu tố
thành phần hoá học sét tại chỗ. Cũng chính từ yếu tố này và phụ thuộc vào kỹ
thuật chế tác, chủ đích làm sản phẩm mà tỉ lệ các loại gốm trong từng di chỉ có
sự khác biệt. Mặc dầu, có những di chỉ được xem là loại hình di chỉ xưởng – nơi
chế tác đồ đá, đồ gốm, thì sự trao đổi giữa các địa bàn rộng chưa đáng kể, chỉ
phục vụ cho cộng đồng, nhu cầu của một địa bàn với quy mô vừa phải. Vì qúa
trình trao đổi, giao lưu còn phụ thuộc nhiều vào đặc điểm địa lý của môi trường
và điều kiện phát triển kinh tế mỗi cộng đồng cư dân cổ.
Chúng ta có thể hình dung về chất liệu
để chế tác nên sản phẩm gốm cổ ở Đồng Nai chủ yếu gồm các thành phần sau: đất
sét là thành phần chính; các chất phụ gia thường thấy là: bả thực vật, bột vỏ
nhuyễn thể, bột tro, cát, sỏi sạn và các khoáng vật tự nhiên. Riêng về nguồn
nguyên liệu chính là đất sét thì phụ thuộc vào nơi chúng được khai thác.
Đồ gốm di chỉ Cầu Sắt ( xã Bình Lộc,
thị xã Long Khánh ) được nhìn nhận như là đồ gốm cổ nhất ở Đồng Nai và cả vùng
Nam Bộ. Nguồn nguyên liệu để làm nên các
sản phẩm gốm Cầu Sắt thuộc nhiều loại, chủ yếu từ đất sét núi và phù sa sông (
yếu tố vi lượng kẽm là 0,01%, phốt pho 0,1%), có loại sét cao lanh với thành
phần chính là thạch anh, phen –xphát, một số khoáng vật như caolinit hiện diện
trong sản phẩm khi chế tác nhưng bị huỷ trong quá trình nung; chất phụ gia gồm
có cát, bã thực vật, hạt đá. Các di chỉ trên địa bàn vùng đồi núi, đất đỏ ba
zan như Cầu Sắt, Núi Gốm, Hàng Gòn, Dầu Giây, Phú Hoà…thì nguồn nguyên liệu
chính là sét núi ( chiếm tỉ lệ 70 % ), chất phụ gia là sa thạch khá đa dạng. Đồ
gốm di chỉ Bình Đa làm từ đất sét lọc kỹ, có pha thêm cát mịn, vỏ nhuyễn thể
được nghiền nát, một tỉ lệ nhỏ bột đá màu trắng và bã thực vật. Tại di chỉ Suối
Linh, Suối Chồn, Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, Phước Tân… hầu hết đồ gốm cũng có những nét tương đồng về chất
liệu với gốm Bình Đa, đặc biệt có thêm chất phụ gia như trò bùn; có thể chất
này có sẵn trong sét phù sa sông ( khu vực hạ lưu sông Đồng Nai ) hay được cư
dân thêm vào trong chế tác.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thành
phần hoá học, phương pháp quang phổ về chất liệu gốm cổ ở Đồng Nai, một số nhà
nhà khoa học cho biết những khoáng vật phụ gia trong gốm cổ Đồng Nai có thể
khai thác từ nhiều doi cát phù sa ven các sông, suối bắt nguồn từ hướng Đông
Bắc của địa hình chảy qua những vùng có hoặc không phủ ba zan đến Xuân Lộc –
Long Khánh. Phụ gia bắt nguồn từ nhiều nguồn khoáng vật như: khoáng gốn ba zan
( gồm olivine, fero-magésien, spinelle liménite ); khóng gốc granit ( gồm
hornbleinde, zircon, mica, rulite, micro-granit, rhyolite/ quartz, corrodes );
đá biến chất ( staurtile); đá trầm tích ( grès, latérite- écomicte ferrogineux,
felsat…). Phụ thuộc vào nguyên liệu và tỉ lệ pha chế các chất phụ gia và trình
độ kỹ thuật chế tác mà tạo nên độ bền của một sản phẩm gốm.
Gốm cổ Đồng Nai trong các di chỉ khảo
cổ học được chế tác bằng kỹ thuật bàn xoay chiếm vai trò chủ đạo và phối hợp
với các thao tác kỹ thuật bằng tay trong nhiều công đoạn. Những loại hình hiện
vật gốm chế tác thuần bằng tay chiếm tỉ lệ nhỏ. Dấu vết của kỹ thuật chế tác
bằng bàn xoay thể hiện rõ nét từ vết mờ hay đường chỉ viền ngang phần đáy,
miệng của những trên nhiều tiêu bản hiện vật gốm được phát hiện. Ngoại trừ các
thao tác trong khâu chọn nguyên liệu, phụ gia thì các kỹ thuật thao tác bằng
tay như dải cuộn ( tạo phôi ), nặn vuốt ( dáng mép miệng, tạo gờ, xoa bề mặt,
miết láng… ), kỹ thuật hòn dập – bàn kê, kỹ thuật gắn kết chân đế, chải, khắc,
tô màu…trong chế tác sản phẩm gốm thể hiện ở công đoạn tạo hình, tu chỉnh bề
mặt, trang trí hoa văn.
Trên góc độ chính từ chất liệu và kỹ
thuật chế tác, các nhà nghiên cứu đã phân ra làm các loại gốm chính trong các
di chỉ khảo cổ học là gốm mịn, gốm thô
và gốm xốp. Điều này phụ thuộc vào khâu chọn nguyên liệu chính, tỉ lệ chất phụ
gia và độ nung. Loại gốm mịn được chế tác với khâu nguyên liệu được tuyển chọn
kỹ với chất liệu sét mịn, chất phụ gia chủ yếu là cát hay hoặc một số chất khác
cũng được sàng lọc kỹ ( hạt mịn, nhỏ ), độ nung cao nên có độ cứng chắc đảm
bảo. Loại gốm thô thì chất liệu không tuyển chọn kỹ ( kích cỡ hạt lớn ) và độ
nung thấp; loại gốm xốp thì tỉ lệ chất phụ gia như bã thực vật, tro mùn…chiếm
tỉ lệ khá lớn, độ nung thấp nên chúng dễ bị thấm nước, không có độ bền.
Hoa
văn: Hoa văn trang trí trên sản phẩm gốm cũng là một tiêu chí để phân loại gốm: gốm có hoa văn
và không có hoa văn ( gốm trơn ). Tại các di chỉ khảo cổ học Đồng Nai, hai loại
gốm này đều được phát hiện nhưng tỉ lệ giữa chúng trong các di chỉ khác nhau.
Hoa văn được thể hiện trên bề mặt của nhiều loại tiêu bản gốm và với chủ đích
của người chế tác. Có những tiêu bản thể hiện nhiều hoa văn phong phú nhưng
cũng có những tiêu bản được thể hiện một dạng hoa văn trang trí.
Văn chải: được tạo nên từ
những que dẹt dập tua đầu hay nhiều răng khá đều để chải bề ngoài phôi gốm tạo
thêm độ cứng và tăng độ bám của áo gốm phủ ngoài. Vết rãnh chải thường sâu,
chạy theo nhiều chiều ( dọc, xiên, cắt ngang hay chéo nhau ).
Văn thừng: được tạo từ những
bàn dẹt có cuốn dây thừng có nhiều kích cỡ khác nhau đập, lăn lên phôi gốm và
bề mặt để tạo độ cứng, chắc cho sản phẩm. Văn thừng thể hiện trên gốm theo
nhiều chiều khác nhau và thường bố trí kết hợp
văn chải.
Văn khắc vạch: được tạo nên từ các que, thẻ đầu nhọn
hay tròn hoặc tạo răng với kích cỡ nhỏ, vừa. Văn khắc vạch thường thể hiện trên
nền văn thừng, khá đa dạng với các đồ án trên nhiều phần bề mặt của sản phẩm.
Văn in chấm, in dải: Tạọ nên
từ các que hay thẻ hoặc đầu ngón tay được sử dụng theo chủ đích của người thợ
như in từng chấm rời, nối tiếp nhau hay từng dải vạch chấm hay các dải đường
ngang, thẳng, chéo, xiên nhau, song song hoặc các hình học…vào phôi gốm.
Văn dập: được tạo nên từ các
vật phẩm như tấm nan tre, nan chiếu có sẵn những đường gờ nổi, hay các hình
hình học. Người thợ dùng dập vào phôi gốm. Một số ý nhiều ý kiến cho rằng văn
dập là vết tích của việc gốm khi vừa tạo
dáng ( còn ướt ) được phơi trên những vật phẩm nói trên.
Văn đắp nổi: được tạo từ
những dải đất sét tạo thành gờ, dải băng dài hay ngắn với nhiều kích cỡ, chế
tác rời và đắp vào mặt gốm. Văn đắp nổi thường được gắn vào mặt gốm chủ yếu ở vai gốm thường thấy ở các laọi chum, vò.
Văn khoét – miết: được tạo bằng que dẹt có đầu bằng hay
chỉ đơn thuần bằng ngón tay người chế tác ấn lên mặt trong của cổ gốm ( nơi
tiếp giáp gữa phần cổ và thân, vai ) trên nền văn chải, văn thừng. Những rãnh
hình lòng máng, những băng miết láng song hành với các dạng văn khác có tính
chất trang trí cho sản phẩm.
Những đồ án, hoạt tiết hoa văn trên
gốm cổ Đồng Nai rất phong phú, đa dạng. Chúng được thể hiện trên các bề mặt của
sản phẩm như: các đường vạch, chỉ chìm hay chấm ( thẳng, song song, xiên, chéo
nhau, cong, đường xoáy trôn ốc, đường lượn sóng, đường gãy rời nối tiếp nhau…),
hình hình học ( tam giác/ răng sói, hình thoi, hình vuông / dạng ô lưới, nửa
hình tròn, hình khuôn nhạc, hình bầu dục, hình răng cưa, hình hoa thị, hình
sao…); hình chữ ( chữ V, chữ S ). Các đồ án, hoạ tiết được phối kết với
nhau từ một đến nhiều các loại văn, hoạ
tiết được được thể hiện bằng nhiều kiểu ( nổi, chìm, lồi hay lõm, liên kết,
cách rời…) tạo nên những mảng trang trí rất độc đáo trên bề mặt của sản phẩm
gốm.
Ngoài các hoa văn được dùng trong
trang trí gốm, trong gốm cổ Đồng Nai có xuất hiện loại gốm phủ màu hoặc bôi
màu trang trí. Những dạng loại gốm này chiếm tỉ lệ vừa phải trong tỉ lệ các
tiêu bản gốm phát hiện được tại các di chỉ khảo cổ. Riêng về loại gốm phủ màu
để xử lý bề mặt trước khi nung chiếm tỉ lệ cao hơn dạng gốm bôi màu trang trí.
Những bề mặt sản phẩm gốm phủ màu thường thấy rất đa dạng như màu nâu, nâu đỏ,
đỏ nhạt, xám nhạt, xám sẫm, vàng, vàng nhạt, trắng đục, đen…Về màu phủ áo gốm
có những ý kiến cho rằng đó là một dạng nhựa thực vật hoặc một loại khoáng chất
được hoà vào trong nước pha đất loãng để xử lý trên bề mặt. Về dạng gốm có bôi
màu trang trí chiếm tỉ lệ vừa phải trong số tiêu bản gốm và di chỉ khảo cổ được
khai quật mà trong đó tiêu biểu là số tiêu bản thu thập được tại di chỉ Bình
Đa. Về mặt kỹ thuật, lớp màu áo gốm trang trí cũng được thực hiện trước khi
nung, có tác dụng làm bóng láng bề mặt sản phẩm bên trong và bên ngoài nhưng
chủ yếu là thể hiện nét thẩm mỹ của sản phẩm. Những sản phẩm gốm bôi màu trang
trí thì bề mặt thường để trơn, rất hiếm sự kết hợp với các thủ pháp tạo hoa
văn. Loại gốm bôi màu trang trí có những nét khác biệt là chúng được thể hiện
có thể trên khắp bề mặt trong và ngoài hay từng bộ phận của sản phẩm. Màu sắc
của màu bối trang trí cũng đa dạng nhưng chủ yếu là nâu, đen, đỏ tươi với các
sắc độ khác nhau. Ngoài tính chất trang trí mỹ thuật thì màu bôi trang trí còn
tác dụng tăng thêm độ bền của sản phẩm gốm.
***
Qua
kết quả nghiên cứu khảo cổ học nói chung, có thể thấy rằng vùng đất Đồng Nai là
một trong những địa bàn hình thành và phát triển của những cộng đồng cư dân cổ.
Trong quá trình tồn tại, cư dân cổ Đồng Nai đã thích ứng với môi trường địa –
sinh thái và không ngừng sáng tạo để phát triển. Cư dân cổ Đồng Nai đã biết đến
những nghề thủ công mà trong đó có nghề làm gốm với một trình độ kỹ thuật nhất
định để thích ứng trong những điều kiện phát triển theo chiều hướng tích cực.
Những di chỉ khảo cổ với số lượng hiện vật gốm được phát hiện trên các tiểu
vùng địa lý đặc trưng cho thấy một sự phát triển về nghề làm gốm để phục vụ cho
đời sống kinh tế xã hội nguyên thuỷ kể từ khi con người biết đến chăn nuôi và
trồng trọt. Những sản phẩm từ nghề làm gốm với những công năng, công dụng đã
tạo điều kiện thuận lợi nhiều mặt cho cư dân cổ từ vùng đồi núi hay đồng bằng,
vùng cận biển trong chu kỳ vòng đời người của cá nhân cũng như sự tồn tại nói
chung của cộng đồng. Tính chất đáp ứng nhu cầu cho cộng đồng và sự trao đổi,
liên hệ giữa các cộng đồng thể hiện qua những di chỉ được đánh giá là di chỉ
xưởng chế tác công cụ đá, gốm. Điều này phản ánh những bước tiến về trình độ
nhận thức, khả năng sáng tạo và chiều kích kinh tế, xã hội của cộng đồng cư dân
cổ.
Với
niên đại đoán định của di chỉ Cầu Sắt từ 5.000 – 4.000 năm cách ngày nay thì có
thể thấy rằng cư dân cổ Đồng Nai đã biết chế tác đồ gốm từ thiên niên kỷ thứ
III trước Công nguyên. Đồ gốm phát hiện tại di chỉ Cầu Sắt rất đa dạng và được
xem là hoàn thiện về các thao tác kỹ thuật chế tác gốm của con người cổ. Qua
xem xét các sưu tập hiện vật gốm trong các di chỉ khảo cổ theo trục thời gian
và mở rộng trên các địa bàn khác nhau: từ Cầu Sắt, Suối Linh, Núi Gốm…ở vùng
cao cho đến Bình Đa, Gò Me…ở vùng ven sống hay Cái Vạn, Rạch Lá, Cái Lăng…vùng
cận biển và ngược lên vùng đất đỏ ba zan Xuân Lộc, Phú Hoà, Dầu Giây, Suối
Chồn… các nhà nghiên cứu ghi nhận được sự biểu hiện đa dạng, phong phú trong
giai đoạn đầu và dần về sau hình thành một truyền thống gốm khá ổn định bắt đầu
từ thời đại đá mới – đồng của cư dân cổ Đồng Nai / nghĩa là có một truyền thống
chế tác gốm mang phong cách của cộng đồng người cổ Đồng Nai. Đặc trưng của
truyền thống gốm Đồng Nai thời cổ là sự đa dạng về chất liệu, màu sắc, sự phong
phú về, kiểu dáng, rắn chắc về chất lượng, mộc mạc trong trang trí, ổn định
trong loại hình và dồi dào về số lượng. Đồng thời, ngoài những đặc trưng chung
đã ổn định thành biểu hiện của truyền thống những đồ gốm cổ Đồng Nai có những
sắc thái khác lạ tạo nên những nét chấm phá và sự sáng tạo cũa những nghệ nhân
chế tác gốm như gốm được tô hay vẽ màu.
Ths. Phan Đình Dũng
Tài liệu
tham khảo
1. Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí
Hoàng. Khảo cổ Đồng Nai, Nxb Đồng Nai 1991.
2.Viện KHXH tại Tp.HCM, Bảo tàng Đồng Nai.
Báo cáo khai quật di tích Khảo cổ học Cái Vạn.
3. Viện Khảo cổ học , Bảo tàng Đồng Nai. Báo
cáo khai
quật di tích Khảo cổ học Rạch Lá, Hà Nội 2002.